
Du lịch sinh thái ở Đồng Tháp Mười - Ảnh minh họa
Tiềm năng và xu hướng phát triển
Với đặc điểm nằm trong miền khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, trải dài trên 15 vĩ độ với 3/4 diện tích là đồi núi, địa hình đa dạng, hơn 3.200km đường bờ biển và vùng biển hơn 1 triệu km2 nơi có tới gần 3.000 hòn đảo, Việt Nam có sự phong phú, đa dạng về các HST bao gồm 95 kiểu HST thuộc 7 dạng HST chính trên cạn; 39 kiểu HST đất ngập nước và 20 kiểu HST biển khác nhau. Sự phong phú, đa dạng của các HST chính là môi trường sống cho các loài sinh vật và để Việt Nam được biết đến như một trong 16 trung tâm ĐDSH lớn nhất thế giới, nơi có trên gần 14.000 loài thực vật trong đó 12.000 loài thực vật bậc cao thuộc gần 3.000 chi và 398 họ; gần 19.000 loài động vật, trong đó có 275 loài thú, 828 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái; 2.470 loài cá; 400 loài san hô tạo rạn.
Các giá trị về sinh thái nói chung và đặc biệt là ĐDSH tập trung chủ yếu ở hệ thống 9 khu dự trữ sinh quyển đã được UNESCO công nhận; 34 vườn quốc gia, 58 khu dự trữ thiên nhiên, 14 khu bảo tồn loài, sinh cảnh.
Cùng với sự đa dạng và đặc sắc của caùc HST, ĐDSH, caùc giaù trị văn hóa bản địa tại những điểm đến có giá trị sinh thái cao cũng rất phong phú, đa dạng và đặc sắc như tri thức trồng lúa nước ruộng bậc thang với cách thức lấy nước từ dưới sông, suối lên ruộng bằng “cọn nước” ở địa hình núi cao phía Bắc; phương thức lên “líp” trồng cây ăn trái ở vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long…; các lễ hội dân gian của cộng đồng dân tộc thiểu số gắn với ước nguyện cầu mong mùa màng tươi tốt… Đây là tiềm năng tài nguyên to lớn, góp phần tạo lợi thế cạnh tranh để phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam.
Tuy nhiên, một thực tế hiện nay, phát triển du lịch kéo theo việc xây dựng kết cấu hạ tầng khách sạn và các công trình dịch vụ du lịch, tất yếu dẫn đến việc xâm lấn những diện tích đất đai vốn trước đây dành cho trồng trọt và chăn nuôi, vừa làm giảm đi quỹ đất nông nghiệp vừa gây ONMT sống, làm mất đi cảnh quan tự nhiên, thậm chí làm tổn hại nghiêm trọng đến ĐDSH cũng như sức khỏe của con người. Vì vậy, phát triển du lịch mà vẫn BVMT sống, làm phong phú thêm môi trường tự nhiên và bảo tồn, phát huy được những đặc sắc văn hóa bản địa là xu hướng tất yếu để bảo đảm sự bền vững.
Do vậy, phát triển DLST có trách nhiệm là một loại hình du lịch vừa dựa vào những hình thức truyền thống vừa có sự hòa nhập với môi trường tự nhiên và văn hóa bản địa, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm của du khách, không gây tổn hại đối với môi trường tự nhiên và nền văn hóa sở tại. Tham gia loại hình du lịch này, du khách có thể đến với những vùng thiên nhiên hoang sơ, tươi đẹp, những miền quê bình yên, trù phú hay các khu bảo tồn thiên nhiên đa dạng… với những trải nghiệm thú vị. Đây cũng chính là loại hình du lịch đang có xu hướng phát triển hiện nay.
Ở nước ta, DLST cộng đồng đã góp phần xóa đói, giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Du lịch cộng đồng mang lại hiệu quả rõ rệt trong quá trình phát triển ở các vùng nông thôn nước ta, tạo nhiều cơ hội cho cộng đồng địa phương thu nhập trực tiếp từ hoạt động du lịch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng dịch vụ và phát triển bền vững. Thông qua DLST cộng đồng, văn hóa các địa phương, các vùng miền được tôn trọng, bảo vệ, khai thác, phát huy giá trị và được giới thiệu, quảng bá rộng rãi.
Một số đề xuất để phát triển du lịch sinh thái bền vững
Sự phát triển nhanh chóng của Ngành Du lịch thời gian qua đã và đang góp phần tích cực vào phát triển KT-XH của đất nước nói chung và nhiều địa phương nói riêng, song đồng thời cũng gây áp lực không nhỏ lên môi trường sống, cảnh quan thiên nhiên... Để bảo đảm phát triển DLBV, một số giải pháp cần được quan tâm nhằm tăng cường BVMT trong phát triển du lịch:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT, trong đó quy định những nội dung mới như du lịch có trách nhiệm, chi trả dịch vụ môi trường HST (đối tượng là khách du lịch), tăng cường chế tài xử phạt vi phạm.
Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu du lịch bảo đảm tính khoa học, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch thiếu đồng bộ, chồng chéo gây khó khăn cho công tác quản lý nói chung, quản lý môi trường nói riêng.
Tăng cường năng lực quản lý môi trường trong các khu du lịch, khu bảo tồn, phân công thống nhất đầu mối quản lý các khu bảo tồn, vườn quốc gia… Cần có cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các đơn vị quản lý các khu bảo tồn và vườn quốc gia, các cơ quan hành chính và an ninh địa phương, cơ quan quản lý trung ương, các công ty du lịch, đại diện các cộng đồng nhân dân địa phương;
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, triệt để những hành vi gây ONMT trong kinh doanh dịch vụ du lịch. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này; nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật BVMT, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và BVMT, phát triển DLBV.
Phát triển sinh kế cho người dân góp phần bảo vệ và sử dụng bền vững TNTN và môi trường. Chú trọng phát triển dịch vụ du lịch tại địa phương, hỗ trợ phát triển các loại hình du lịch dựa vào cộng đồng.
Tăng cường hợp tác quốc tế, đa dạng hóa phương thức hợp tác trong phát triển DLBV. Các nhà đầu tư, tài trợ, tổ chức phi chính phủ, các tổ chức dân sự xã hội trong và ngoài nước có thể tham gia và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển DLBV khi có cơ chế khuyến khích, kêu gọi tham gia hợp lý.
Môi trường du lịch tự nhiên là một bộ phận cấu thành nên môi trường du lịch nói chung, bao gồm các nhân tố thiên nhiên như đất, nước, không khí, hệ động vật trên cạn và dưới nước… và các công trình kiến trúc cảnh quan thiên nhiên nơi tiến hành hoạt động du lịch. Môi trường tự nhiên có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển và đa dạng hóa các hoạt động du lịch, tạo tiền đề cho sự phát triển các khu du lịch. Môi trường du lịch nhân văn là một bộ phận của môi trường du lịch liên quan trực tiếp đến con người và cộng đồng, bao gồm các yếu tố về dân cư, dân tộc. Gắn liền các yếu tố dân cư, dân tộc là truyền thống, quan hệ cộng đồng, các yếu tố về lịch sử, văn hóa… Đó là những yếu tố tích cực, tạo sự hấp dẫn của môi trường du lịch. Bên cạnh đó, sự phát triển các yếu tố văn hóa, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên nhân văn (di tích lịch sử, di sản thế giới, lễ hội, ẩm thực, văn hóa dân tộc…) ở các điểm du lịch cũng chính là những phương diện hữu hiệu nhằm nâng cao các giá trị nhân văn, tăng điều kiện thuận lợi để thu hút du khách. Môi trường KT-XH là toàn bộ hoàn cảnh, hoạt động KT-XH của một quốc gia, khu vực hay trên toàn thế giới. Khi xem xét môi trường Kt-XH thì cần xem xét rõ các yếu tố như thể chế chính sách, trình độ phát triển KH&CN, mức độ phát triển kết cấu hạ tầng, môi trường đô thị và công nghiệp, mức sống của người dân, an toàn trật tự xã hội, tổ chức xã hội và quản lý môi trường. Do đó, muốn phát triển du lịch cần chú trọng bảo vệ tổng hợp cả môi trường du lịch tự nhiên, môi trường du lịch nhân văn và môi trường du lịch KT-XH.
ĐỖ THỊ PHƯƠNG
Khoa Kinh tế Tài nguyên và Môi trường
Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội