
Đặt vấn đề
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội TP. Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, mục tiêu tổng quát là xây dựng TP. Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại với vai trò đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đóng góp ngày càng lớn đối với khu vực và cả nước; từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của đất nước và khu vực Đông Nam Á. Phát triển TP. Hồ Chí Minh thành trung tâm văn hóa, thể thao, trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Vùng và cả nước; đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Mục tiêu cụ thể là tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2015 đạt từ 10-10,5%/năm, giai đoạn 2016-2020 đạt từ 9,5-10%/năm và giai đoạn 2021-2025 đạt từ 8,5-9%/năm; GDP bình quân đầu người đến năm 2015 đạt từ 4.856-4.967 USD, đến năm 2020 đạt từ 8.430-8.822 USD, đến năm 2025 đạt từ 13.340-14.285 USD. [1]
Từ những định hướng về phát triển KT-XH như trên, nhu cầu nước đáp ứng cho phát triển là rất lớn. Hiện nay, tổng lượng nước khai thác khoảng 2,8 triệu m3/ ngày đêm, trong đó khai thác từ nguồn nước mặt khoảng 2,2 triệu m3/ngày-đêm, nước dưới đất khoảng 0,6 triệu m3/ngày đêm và dự kiến vào năm 2015 khoảng 3,5 triệu m3/ngày-đêm. Trong quá trình khai thác nguồn nước dưới đất những năm vừa qua đã xuất hiện nhiều vấn đề đang đặt ra trước các nhà quản lý thành phố như vấn đề khai thác nguồn nước qua mưc hay chưa quá mức khả năng khai thác của nguồn nước, vấn đề suy giảm chất lượng nguồn nước, đặc biệt là vấn đề sụt lún mặt đất do khai thác nguồn nước này. Trong bài viết này, tác giả muốn trình bày khái quát về nguồn nước dưới đát, khả năng khai thác; hiện trạng khai thác, sử dụng, bảo vệ và phòng chống rủi ro do khai thác nguồn nước này gây ra; những bất cập, khó khăn trong công tác quản lý, khai thác sử dụng và đề xuát các giải pháp góp phần quản lý, khai thác nguồn nước bền vững nguồn nước dưới đất ở thành phố.
Nguồn nước dưới đất ở thành phố Hồ Chí Minh, khả năng khai thác sử dụng [4]
Theo kết quả nghiên cứu mới nhất, TP. Hồ Chí Minh có các đơn vị chứa nước sau: (i) Tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen trên (qp3): Phân bố trên diện tích 1983 km2; độ sâu phân bố từ 0 m-90 m; bề dày thay đổi từ 2,0-63,0 m; độ giàu nước thay đổi từ nghèo đến giàu. Nước thuộc loại siêu nhạt đến mặn; độ tổng khoáng hóa thay đổi 0,04-21,23 g/l; độ pH thay đổ từ 3,1-7,6. Nguồn bổ cập cho tầng chứa nước chủ yếu là nước mưa, từ dòng ngầm từ phía bắc đến và một phần bổ cập từ những dòng mặt; miền thoát chảy về phía nam, Tây nam bộ, bổ cập cho các dòng mặt và do khai thác sử dụng. (ii) Tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen giữa - trên (qp2-3): Phân bố trên diện tích 2.020 km2; độ sâu phân bố từ 0 mét đến 155,0m, bề dày thay đổi trong khoảng 2,0-84,0m; độ giàu nước thay đổi từ nghèo đến giàu. Độ tổng khoáng hóa của nước thay đổi từ 0,03-8,65g/l; độ pH trong khoảng: 2,8-7,80. Nguồn bổ cập chủ yếu từ nước mưa, từ dòng ngầm từ vùng cao phía bắc chảy đến và một phần từ những dòng mặt; miền thoát chủ yếu là chảy về phía nam và Tây Nam Bộ, một phần cung cấp cho sông suối lớn và khai thác sử dụng. (iii) Tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen dưới (qp1): Phân bố trên diện tích 2.042 km2; độ sâu phân bố từ 11,0 mét đến 195,0m; độ giàu nước của tầng chức nước thay đổi từ nghèo đến giàu. Độ tổng khoáng hóa thay đổi từ 0,04-14,21g/l; độ pH từ 3,25-8,32. Nguồn bổ cập chủ yếu là dòng ngầm từ các vùng cao phía Bắc và Đông bắc chảy đến, một phần được bổ cập từ dòng mặt; miền thoát là chảy về phía nam và Tây nam bộ, một phần cung cấp cho sông suối lớn và một lượng đáng kể là khai thác sử dụng. (iv) Tầng chứa nước lỗ hổng Pliocen trên (n22); Phân bố trên diện tích 2.012 km2; độ sâu phân bố từ 34,0m đến 236,0m; độ giàu nước thay đổi từ nghèo đến giàu. Độ tổng khoáng hóa thay đổi từ 0,02-51,0g/l; độ pH từ 1,39-8,34. Nguồn bổ cập chủ yếu từ nước mưa, dòng ngầm từ các vùng cao phía bắc và đông bắc chảy đến và một phần được bổ cập từ những dòng mặt lớn; miền thoát chủ yếu là chảy về phía nam và Tây nam bộ, một phần chảy ra các sông suối lớn và một lượng đáng kể được khai thác sử dụng. (v) Tầng chứa nước lỗ hổng tuổi Pliocen dưới (n21): Phân bố trên diện tích 1634 km2; độ sâu phân bố từ 101,0m đến 282,0m và độ giàu nước thay đổi từ nghèo đến giàu. Độ tổng khoáng hóa thay đổi từ 0,05-1,38g/l; độ pH từ 3,38-7,61. Nguồn bổ cập chủ yếu từ nước mưa, dòng ngầm từ các vùng cao phía bắc và đông bắc chảy đến; miền thoát nước chảy về phía nam và Tây nam bộ và một lượng đáng kể là do khai thác sử dụng. (vi) Tầng chứa nước lỗ hổng tuổi Miocen trên (n13): Phân bố trên diện tích 682 km2; độ sâu phân bố thay đổi trong khoảng 116,0-3040,0m; đây là tầng chứa nước giàu nước. Độ tổng khoáng hóa thay đổi từ 0,67-1,63g/l, độ pH từ 7,7-8,4. Nguồn bổ cập chủ yếu từ mưa, dòng ngầm từ các vùng cao phía Bắc và Đông bắc chảy đến; miền thoát chủ yếu là chảy về phía nam và Tây nam bộ.
Nước dưới đất có khả năng khai thác theo Trữ lượng khai thác tiềm năng là 1.659.581m3/ngày-đêm và theo trữ lượng khai thác an toàn là 1.183.706m3/ngày-đêm (mùa khô). (Bảng 1)
Bảng 1. Trữ lượng khai thác tiềm năng và trữ lượng khai thác an toàn nước dưới đất trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh (m3/ngày-đêm)
Bảng 2. Mô đun khai thác nước nhạt trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (l/ngày-đêm/km2)
Hiện trạng khai thác nước dưới đất và những thách thức [2]
Nước dưới đất khu vực TP. Hồ Chí Minh đã được khai thác sử dụng từ lâu và chính thức đưa vào mạng cấp nước của Thành phố vào năm 1880 và từ đó việc khai thác nguồn nước này càng ngày càng tăng và khai thác với lưu lượng khá ổn định từ năm 2020 đến nay (Bảng 3).
Bảng 3. Lưu lượng khai thác nước dưới đất từ 1880 đến 2017
Lưu lượng khai thác tính theo tầng chứa nước (Bảng 4).
Bảng 4. Hiện trạng khai thác nước dưới đất theo tầng chứa nước năm 2017
Về chất lương nước nhìn chung, tất cả các tầng chứa nước của Thành phố đều có hàm lượng vi sinh cao hơn QCVN 09-MT: 2015/BTNMT về chất lượng nước dưới đất; riêng 3 tầng chức nước Pleistocen có pH và NH4 và 2 tầng chứa nước Pliocen có hàm lượng Clorua cao hơn quy chuẩn.
Về mực nước các tầng chứa nước, theo tài liệu quan trắc trong năm 2017 cho thấy xu hướng chung là mực nước các tầng chứa nước tăng. Cụ thể đối với tầng chứa nước qp3 mực nước dâng từ 0,69-3,94m; qp2-3 có nơi dâng 2,72m và có nơi hạ 1,95m; qp1 có nơi dâng từ 0,44-2,8m và có nơi hạ 1,83m; n22 mực nước dâng 1,03-1,45m và n21 dâng 0,42m.[3]
Trong quá trình khai thác nước dưới đất trên địa bàn thành phố thời gian qua, có thể nhận dạng được một số bất cập: (I) Khai thác nước tập trung vào tầng chứa nước qp3 là tầng phân bố gần mặt đất. Lưu lượng khai thác vượt quá lớn so với trữ lượng khai thác an toàn và trữ lượng tiềm năng khai thác. (ii) Lượng giếng khai thác tập trung ở tầng qp3 chiếm 63,5% của tổng số giếng khai thác của 6 tầng chứa nước trên địa bàn thành phố, mật độ giếng khai thác rất cao và phần lớn các giếng quy mô nhỏ ở các hộ gia đình, lượng giếng hư hỏng không khai thác sử dụng chiếm 15% tổng số giếng khai thác trong tầng này, do đó nguy cơ ô nhiễm, xâm nhập mặn là rất cao.
4. Kết luận
Nguồn nước TP. Hồ Chí Minh gồm có 6 tầng chứa nước với trữ lượng khai thác an toàn trên 1,1 triệu m3/ngày-đêm. Theo số liệu điều tra thống kế năm 2017, lượng nước khai thác từ các tầng chứa nước khoảng 560.000 m3/ ngày-đêm nằm trong mức khai thác nước an toàn. Hiện nay, việc khai thác nước dưới đất của thành phố chưa được quản lý chặt chẽ, các công trình khai thác nước tập trung nhiều nhất vào tầng chứa nước qp3 nằm gần mặt đất nhất, nguy cơ ô nhiễm và xâm nhập mặn của tầng chứa nước này rất cao. Để đưa tài nguyên nước dưới đất góp phần vào phát triển KT-XH của thành phố cần hạn chế lượng giếng quy mô hộ gia đình, bố trí các giếng khai thác dạng công nghiệp thay thế và khai thác các tầng chứa nước sâu hơn qp2-3, qp1 và n22.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Xân Khoa và Lý Thành Tài, Nghiên cứu các giải pháp phân phối nước đều nhằm cải thiện dịch vụ cấp nước tại TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí kỹ thuật thủy lợi và Môi trường, số 55 (11/2016);
2. Sở TN&MT Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Kết quả điều tra hiện trạng khai thác nước dưới đất và xả nước thải vào nguồn nước trên địa bản TP. Hồ Chí Minh;
3. Trung tâm quy hoạch và điều tra tài nguyên nước Quốc gia (1/2018), Bản tin thông báo, cảnh báo và dự báo tài nguyên nước du7oi1 đất năm 2017 vùng Nam bộ.
4. Bùi Trần Vượng (2010) Biên hội bản đồ địa chất, địa chất thủy văn và địa chất công trình TP. Hồ Chí Minh tỷ lệ 1/50.000;
NGUYỄN HỒ VIỆT ANH VÀ NGUYỄN VĂN NGÀ