Thời gian qua, ứng dụng công nghệ sinh học trong nghiên cứu, chuyển giao và sản xuất nông nghiệp đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cho ngành nông nghiệp. Để hiểu rõ hơn vai trò của công nghệ sinh học, đặc biệt trong công tác chọn tạo giống cây trồng, phóng viên Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với PGS, TS. Nguyễn Xuân Trường, Viện trưởng Viện Sinh học và Công nghệ Nông nghiệp (Học viện Nông nghiệp Việt Nam).
PV: Thưa ông, trong sản xuất nông nghiệp, giống cây trồng có vai trò như thế nào? Viện đã triển khai công tác nghiên cứu, chọn tạo giống và ứng dụng công nghệ sinh học ra sao trong thời gian qua?
PGS, TS. Nguyễn Xuân Trường: Trong sản xuất nông nghiệp, giống cây trồng luôn là nhân tố then chốt, quyết định năng suất và chất lượng. Có thể nói, mọi thành công của sản xuất nông nghiệp đều bắt đầu từ giống. Vì vậy, tại Viện Sinh học và Công nghệ Nông nghiệp, nghiên cứu và chọn tạo giống là một trong những trụ cột quan trọng nhất.
Trước hết, chúng tôi đặc biệt chú trọng công tác thu thập, lưu giữ và bảo tồn nguồn vật liệu di truyền. Đây là nền tảng để định hướng chọn tạo giống. Khi có nguồn vật liệu phong phú, đa dạng và rõ ràng về nguồn gốc, chúng ta mới có thể thiết kế các tổ hợp lai phù hợp với mục tiêu chọn giống và nhu cầu của sản xuất.
Bên cạnh các phương pháp chọn tạo truyền thống, Viện đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại, như chỉ thị phân tử, chẩn đoán nhanh gen kháng sâu bệnh, chịu điều kiện bất thuận. Những công cụ này giúp rút ngắn đáng kể thời gian chọn tạo, đồng thời nâng cao độ chính xác trong việc đánh giá và chọn lọc giống.
Ngoài ra, việc sử dụng các hệ thống đánh giá nhanh, phân tích chất lượng và các mô hình canh tác trong điều kiện kiểm soát cũng giúp chúng tôi sàng lọc, thử nghiệm giống hiệu quả hơn. Cùng với đó là mở rộng hợp tác trong nước và quốc tế nhằm trao đổi vật liệu, công nghệ và kinh nghiệm, qua đó nâng cao chất lượng các giống cây trồng phục vụ sản xuất.
PV: Vừa qua, Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Dưới góc độ một nhà khoa học, ông đánh giá như thế nào về ý nghĩa của Nghị quyết này?
PGS, TS. Nguyễn Xuân Trường: Nghị quyết 57 có thể xem là một bước ngoặt rất quan trọng đối với sự phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam, đặc biệt là trong các lĩnh vực trọng yếu như nông nghiệp,... Đây là lần đầu tiên, Nhà nước xác định khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ là lĩnh vực hỗ trợ, mà thực sự là “động lực chính” để phát triển kinh tế – xã hội.
Một điểm đáng chú ý là Nghị quyết mở ra một hướng đi mới, khuyến khích các nhà khoa học mạnh dạn đưa ý tưởng nghiên cứu vào thực tiễn. Trước đây, nhiều nghiên cứu mặc dù có giá trị khoa học cao nhưng khó ứng dụng vào đời sống. Với cơ chế, chính sách ưu tiên, khuyến khích và hỗ trợ đầu tư từ Nghị quyết, khoảng cách giữa phòng thí nghiệm và thị trường sẽ được rút ngắn. Chẳng hạn, trong nông nghiệp, các giống cây trồng mới, công nghệ nuôi trồng thông minh hay các giải pháp quản lý dịch hại có thể được thử nghiệm và triển khai nhanh hơn, góp phần tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.
Điểm đặc biệt khác của Nghị quyết là thúc đẩy hợp tác đa ngành, đa lĩnh vực. Không chỉ là sự liên kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học mà còn giữa nhà khoa học với doanh nghiệp, địa phương và cộng đồng. Điều này giúp các kết quả nghiên cứu được thương mại hóa nhanh chóng, trở thành sản phẩm cụ thể phục vụ đời sống và sản xuất. Ví dụ, các công nghệ số hóa trong nông nghiệp, như hệ thống giám sát mùa vụ qua dữ liệu vệ tinh hay các ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong dự báo khí hậu và sâu bệnh, sẽ được triển khai hiệu quả hơn khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà khoa học, doanh nghiệp công nghệ và nông dân.
Có thể nói, Nghị quyết 57 đã đánh trúng tâm tư, nguyện vọng của đội ngũ làm khoa học, tạo động lực mạnh mẽ để khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực phát triển đất nước. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam nâng cao năng lực nghiên cứu, thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực, từ kinh tế, y tế, giáo dục đến quản lý xã hội, đồng thời góp phần xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hiện đại, hiệu quả và bền vững.
Nhìn về tương lai, nếu Nghị quyết được triển khai đồng bộ, chúng ta có thể kỳ vọng vào một làn sóng các sáng kiến, dự án và sản phẩm mới, không chỉ mang tính ứng dụng trong nước mà còn có khả năng cạnh tranh quốc tế, đóng góp vào mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia sáng tạo, hội nhập sâu rộng với khoa học công nghệ thế giới.
PV: Trước đây, nhiều chuyên gia đánh giá, các đề tài khoa học khi kết thúc thường không được ứng dụng vào thực tiễn, hay nói cách khác là “cất trong ngăn kéo”. Là đơn vị đầu ngành trong lĩnh vực nghiên cứu, chuyển giao, ông đánh giá như thế nào về nhận định này, và Viện Sinh học và Công nghệ Nông nghiệp đã có những bước tiến mới?
PGS, TS. Nguyễn Xuân Trường: Thực tế cho thấy, trong thời gian qua đã từng xảy ra tình trạng nhiều kết quả nghiên cứu khoa học chưa được đưa vào ứng dụng thực tiễn, thậm chí còn “nằm trong ngăn kéo” hoặc chỉ được triển khai một cách âm thầm, chưa trở thành những sản phẩm khoa học – công nghệ chính thống. Nguyên nhân chủ yếu là do trước đây còn tồn tại nhiều rào cản về cơ chế, chính sách, đặc biệt liên quan đến quyền sở hữu và quyền khai thác các kết quả nghiên cứu.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị đã mở ra một hướng đi rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà khoa học. Theo tinh thần của Nghị quyết, những người trực tiếp nghiên cứu, chọn tạo và tạo ra sản phẩm khoa học – công nghệ chính là chủ sở hữu và tác giả của các thành tựu đó, được toàn quyền sử dụng, khai thác và đưa sản phẩm vào sản xuất, thương mại hóa một cách chính thức và hiệu quả hơn. So với trước đây, nhiều rào cản lớn đã từng bước được tháo gỡ. Mặc dù trên thực tế vẫn còn những nút thắt nhất định, song có thể khẳng định đây là một bước đột phá quan trọng đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của các viện, trường.
Đối với Viện chúng tôi, nghiên cứu khoa học bắt buộc phải xuất phát từ thực tiễn, mà thực tiễn ở đây chính là doanh nghiệp. Doanh nghiệp là đối tác đồng hành cùng các nhà khoa học, đồng thời cũng là chủ thể đặt hàng nghiên cứu, cùng tham gia vào quá trình nghiên cứu, chọn tạo để tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu sản xuất và chế biến. Chỉ khi các sản phẩm nghiên cứu đáp ứng đúng yêu cầu của doanh nghiệp thì doanh nghiệp mới có thể phát triển, mở rộng sản xuất, và khi đó kết quả nghiên cứu khoa học mới thực sự phát huy giá trị.
Kinh nghiệm thực tiễn của Viện cho thấy, khi nhà khoa học đồng hành cùng doanh nghiệp và doanh nghiệp đóng vai trò thương mại hóa sản phẩm, thì các sản phẩm khoa học – công nghệ sẽ đến được với nông dân và người tiêu dùng nhanh nhất, sớm nhất và hiệu quả nhất. Trong quá trình nghiên cứu và phát triển, Viện đã từng bước hình thành được chuỗi hợp tác chặt chẽ theo mô hình này. Đây chính là hướng mở, đồng thời cũng là con đường lâu dài và bền vững đối với các cơ sở nghiên cứu khoa học hiện nay.
Trong Học viện Nông nghiệp Việt Nam, thời gian qua đã có nhiều mô hình hợp tác hiệu quả giữa các đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học với doanh nghiệp. Nhiều mối liên kết bền chặt đã được hình thành giữa các cơ sở khoa học, giữa các cá nhân khoa học với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Một ví dụ tiêu biểu là sự hợp tác giữa Viện Sinh học và Công nghệ Nông nghiệp với Tập đoàn ORION Hàn Quốc trong nghiên cứu và phát triển giống khoai tây phục vụ sản xuất nguyên liệu.
Thông qua mô hình hợp tác này, các giống khoai tây được nghiên cứu, chọn tạo và cung cấp cho nông dân để sản xuất nguồn nguyên liệu có chất lượng cao, đáp ứng đúng yêu cầu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoàn toàn chủ động về nguồn nguyên liệu, đồng thời yên tâm về nguồn gốc khoa học – công nghệ của sản phẩm, bởi toàn bộ quy trình đã được kiểm chứng thông qua nghiên cứu và đào tạo. Về phía nông dân, sản xuất được tổ chức theo vùng, có quy hoạch, có sự đồng hành của các nhà khoa học và doanh nghiệp, bảo đảm chất lượng và đầu ra ổn định.
Nhờ đó, nông dân không còn lo lắng về việc tiêu thụ sản phẩm; sản xuất nông nghiệp trở nên ổn định hơn và phát triển theo hướng bền vững. Đây chính là hiệu quả rõ nét của mô hình liên kết Nhà khoa học – Nhà nông – Nhà doanh nghiệp, một mô hình hợp tác mang lại lợi ích hài hòa cho tất cả các bên.
Bên cạnh lĩnh vực khoai tây, trong Học viện còn có nhiều đơn vị khác đang triển khai các mô hình hợp tác tương tự trong nghiên cứu nấm, giống cây trồng, cây dược liệu, mỹ phẩm, cũng như các giống lúa, ngô và nhiều cây trồng khác. Trên thực tế, cách đây hơn 12 năm, giống lúa lai bản quyền đầu tiên TH3-3 của PGS, TS. Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Trâm, đã đánh dấu một bước đi tiên phong, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đưa sản phẩm khoa học – công nghệ từ nghiên cứu vào sản xuất.
Những kết quả đó cho thấy, khi khoa học, công nghệ gắn chặt với doanh nghiệp, gắn với sản xuất và phục vụ người dân, thì các thành tựu nghiên cứu sẽ được ứng dụng nhanh hơn, hiệu quả hơn và bền vững hơn, đóng góp thiết thực cho sự phát triển của nông nghiệp và xã hội.
PV: Để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước nói chung và ngành nông nghiệp và môi trường nói riêng, Viện đã triển khai những định hướng như thế nào, thưa ông?
PGS, TS. Nguyễn Xuân Trường: Trong thời gian tới, Viện sẽ tiếp tục tập trung nghiên cứu, chọn tạo các giống cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu, phù hợp với từng vùng sinh thái. Chúng tôi cũng chú trọng dự báo xu thế phát triển và những tác động của biến đổi khí hậu để chủ động định hướng nghiên cứu.
Bên cạnh đó, Viện đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới như hệ thống nhà màng, canh tác không đất, Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI) trong sản xuất nông nghiệp nhằm giảm lao động thủ công, tăng năng suất và hiệu quả.
Đặc biệt, chúng tôi xác định tiếp tục đồng hành chặt chẽ hơn với doanh nghiệp, từ đặt hàng nghiên cứu đến cùng đầu tư phát triển sản phẩm, hình thành chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững, góp phần đưa các thành tựu khoa học, công nghệ phục vụ hiệu quả cho sản xuất và đời sống.