news

PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà: Phát triển vùng phải dựa trên ba trụ cột hiệu quả kinh tế, an toàn khí hậu và bền vững môi trường

Thứ năm, 20/11/2025, 06:56 (GMT+7)
logo Để hiện thực hóa định hướng liên kết vùng và thúc đẩy nông nghiệp xanh trong bối cảnh BĐKH, PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi Khí hậu kiến nghị, cần triển khai một hệ thống giải pháp đồng bộ, trong đó hiệu quả khí hậu - môi trường phải được xem là trọng tâm và là tiêu chí đánh giá xuyên suốt theo đúng tinh thần của các chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, ứng phó với BĐKH và chuyển đổi mô hình nông nghiệp.

Tăng hiệu quả liên kết vùng để bảo đảm an toàn khí hậu và thúc đẩy nông nghiệp xanh

Tại Hội thảo "Liên kết vùng - Thúc đẩy chuỗi giá trị xanh trong nông nghiệp Việt Nam", PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi Khí hậu cho biết, Việt Nam đang đối mặt với những thách thức chưa từng có do biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường. Các hiện tượng thiên tai gần đây cho thấy khí hậu - môi trường vận hành theo không gian vùng, không theo ranh giới hành chính. Điều này đặt ra yêu cầu phải chuyển từ mô hình “mỗi tỉnh làm một kiểu” sang mô hình liên kết vùng, tích hợp dữ liệu và quản trị rủi ro tổng hợp.

pham-thi-thanh-nga_1763524910.webp
PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi Khí hậu

Bối cảnh mới cũng gắn với yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, trong đó nhấn mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là động lực đột phá cho phát triển bền vững. Vì vậy, phát triển nông nghiệp không chỉ dừng ở tăng sản lượng mà phải hướng tới nông nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn và phát thải thấp, dựa trên tổ chức không gian vùng hợp lý và khai thác hiệu quả các nguồn lực thiên nhiên và khoa học công nghệ.

PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà nhấn mạnh những lợi thế nổi bật khi triển khai liên kết vùng. Trước hết, liên kết vùng cho phép tối ưu hóa hiệu quả sử dụng các nguồn lực tự nhiên như đất, nước, khí hậu và hệ sinh thái. Khi các địa phương phối hợp trên cơ sở vùng sinh thái và tiểu khí hậu, việc bố trí cây trồng trở nên hợp lý hơn, tránh trùng lặp về sản phẩm và phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng. 

Bên cạnh đó, liên kết vùng tạo điều kiện hình thành các vùng nguyên liệu đủ lớn và ổn định, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến, xuất khẩu và truy xuất nguồn gốc. Đây là nhân tố quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trong bối cảnh thị trường quốc tế ngày càng nhấn mạnh đến yêu cầu giảm phát thải carbon, bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn “từ nông trại đến bàn ăn”.

Khi dữ liệu khí tượng, thủy văn và môi trường được chia sẻ giữa các địa phương, công tác dự báo, cảnh báo và bố trí mùa vụ trở nên đồng bộ hơn, giúp giảm rủi ro trước các hiện tượng cực đoan như hạn, mặn, lũ quét hay mưa lớn. Việc vận hành liên hồ chứa, điều phối nguồn nước và phòng chống thiên tai theo lưu vực cũng hiệu quả hơn so với quản lý rời rạc từng tỉnh, góp phần bảo vệ sản xuất, an toàn tài sản, tính mạng người dân và an ninh nguồn nước.

Giải pháp thúc đẩy liên kết vùng: Thể chế đồng bộ - dữ liệu thống nhất - hạ tầng xanh

Tại Hội thảo, Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi Khí hậu kiến nghị, cần đổi mới tư duy phát triển, chuyển mạnh từ mô hình “tăng sản lượng bằng mọi giá” sang “tối ưu giá trị xanh” dựa trên tiêu chí phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. Thay cho mục tiêu sản lượng tuyệt đối, phát triển vùng phải dựa trên ba trụ cột: hiệu quả kinh tế, an toàn khí hậu và bền vững môi trường. Trong đó, khoa học khí tượng - thủy văn cung cấp nền tảng dữ liệu thiết yếu để định hướng quy hoạch sản xuất, dự báo thời vụ, tính toán nhu cầu nước và xác định các khu vực dễ tổn thương. Việc chuyển từ “nhiều sản lượng - ít giá trị” sang “giá trị cao - ít phát thải” sẽ đặt nông nghiệp vào quỹ đạo phát triển xanh và phù hợp hơn với xu thế thị trường.

PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà cho rằng, việc hoàn thiện thể chế và quy hoạch vùng thích ứng khí hậu là điều kiện tiên quyết để liên kết vùng đi vào thực chất, cần xây dựng cơ chế điều phối vùng thống nhất đối với nông nghiệp xanh, trong đó việc chia sẻ dữ liệu khí tượng, thủy văn và môi trường theo thời gian thực giữa các địa phương đóng vai trò then chốt. Quy hoạch vùng phải được rà soát và cập nhật dựa trên các kịch bản BĐKH mới nhất, đồng thời tích hợp bản đồ rủi ro khí hậu, bản đồ hạn - mặn động, mô hình cân bằng nước liên vùng và phân bố sinh thái - khí hậu đặc thù. Đây là cơ sở để bố trí cơ cấu sản xuất hợp lý, tránh xung đột sử dụng tài nguyên và tăng cường khả năng phòng tránh thiên tai.

pham-thi-thanh-nga3_1763542753.webp
Nhiều giải pháp, kiến nghị được PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà đưa ra

Song song với đó, phát triển hạ tầng xanh và hệ thống thông tin khí hậu vùng cần được triển khai đồng bộ để tạo nền tảng cho nông nghiệp xanh. Việc đầu tư các trạm quan trắc tự động, hệ thống cảm biến mưa, ẩm, độ mặn, nền tảng giám sát nước ngầm và chất lượng môi trường không chỉ phục vụ dự báo mà còn hỗ trợ giám sát canh tác. Hạ tầng xanh - xám linh hoạt, như rừng ngập mặn ven biển, các vùng trữ nước tự nhiên, không gian thoát lũ và vành đai sinh thái, cần được thiết kế theo ngưỡng khí hậu mới, bảo đảm có thể nâng cấp khi điều kiện khí tượng - thủy văn vượt mốc thiết kế.

PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà khẳng định, việc phát triển dịch vụ khí hậu nông nghiệp số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao năng lực dự báo và cảnh báo sớm rủi ro. Cần xây dựng hệ thống dịch vụ khí hậu nông nghiệp số (Digital Agro-Climate Services), kết nối dữ liệu khí tượng, thủy văn, đất đai, môi trường và cây trồng, để cung cấp thông tin chuyên sâu về thời vụ, lượng nước tưới, cảnh báo hạn - mặn, sâu bệnh và dự báo năng suất theo từng khu vực nhỏ. 

Để thúc đẩy liên kết vùng, cần xây dựng cơ chế tài chính xanh và khuyến khích vai trò của khu vực tư nhân. Việc thành lập Quỹ đầu tư khí hậu và nông nghiệp xanh vùng sẽ hỗ trợ các mô hình canh tác thông minh với khí hậu (CSA), chuyển đổi năng lượng sạch, cải thiện hạ tầng xanh và giảm phát thải. Cơ chế “kích hoạt tài chính khí hậu” cho phép giải ngân nhanh khi các chỉ số khí tượng - thủy văn vượt ngưỡng rủi ro là một hướng tiếp cận cần thiết để hỗ trợ kịp thời sản xuất nông nghiệp. 

Các giải pháp trên không chỉ tạo điều kiện thúc đẩy liên kết vùng trong nông nghiệp, mà còn đặt nền móng cho mô hình nông nghiệp xanh - thông minh - phát thải thấp, phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững và thích ứng với BĐKH của Việt Nam trong giai đoạn mới.

Khánh Linh