PGS.TS Vũ Thanh Ca: Ứng phó biến đổi khí hậu và quản lý thiên tai, Việt Nam vận dụng được gì từ kinh nghiệm của Nhật Bản?

Thứ tư, 21/8/2024, 08:12 (GMT+7)
logo “Mặc dù điều kiện của Nhật Bản rất khác với Việt Nam, nhưng những kinh nghiệm trong việc phát triển hệ thống ứng phó biến đổi khí hậu và quản lý thiên tai hiệu quả của Nhật Bản rất thích hợp để Việt Nam học tập”, đó là quan điểm của PGS.TS Vũ Thanh Ca, Giảng viên cao cấp, Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội chia sẻ với Tạp chí Tài nguyên và Môi trường.

Là một quốc gia có lãnh thổ trải dài trên nhiều vĩ tuyến, địa hình đa dạng và phức tạp, khí hậu Việt Nam sự khác biệt khá lớn. Chính vì vậy, dưới tác động của biến đổi khí hậu những năm gần đây Việt Nam đã chứng kiến nhiều biến đổi môi trường và tác động xấu đối với nền kinh tế và cuộc sống của con người.

Vậy vấn đề ứng phó biến đổi khí hậu và quản lý thiên tai ở Việt Nam có những điểm nào cần lưu tâm và chúng ta vận dụng được gì từ Nhật Bản - quốc gia đã và đang rất quyết liệt trong công tác giảm thiểu biến đổi khí hậu và kiểm soát thảm họa do thiên nhiên gây ra, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường đã có cuộc phỏng vấn PGS.TS Vũ Thanh Ca về nội dung này.

PGS.TS Vũ Thanh Ca: Ứng phó biến đổi khí hậu và quản lý thiên tai, Việt Nam vận dụng được gì từ kinh nghiệm của Nhật Bản?

PGS.TS Vũ Thanh Ca (Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội). Ảnh: Vũ Linh

PV: Thưa PGS.TS Vũ Thanh Ca, theo đánh giá của ông, những năm qua Chính phủ Việt Nam và người dân Việt Nam đã có những nỗ lực ra sao trong công tác giảm thiểu biến đổi khí hậu và kiểm soát thảm họa do thiên nhiên gây ra?

PGS.TS Vũ Thanh Ca: Giảm thiểu biến đổi khí hậu có nghĩa là phải giảm phát thải khí nhà kính để giảm hiện tượng nóng lên toàn cầu. Trong thực tế, các quốc gia phát triển đã phát thải khí nhà kính hàng trăm năm nay. Trung Quốc và Ấn Độ trong nhiều năm nay cũng là những quốc gia phát thải khí nhà kính hàng đầu thế giới.

Trong khi đó, Việt Nam hiện nay với dân số trên 1% dân số thế giới mới phát thải khoảng 0,8% tổng lượng phát thải của cả thế giới. Như vậy, theo nguyên tắc công bằng trong luật pháp quốc tế về môi trường, trách nhiệm giảm thiểu biến đổi khí hậu của Việt Nam là rất nhỏ so với các quốc gia phát triển cùng với Trung Quốc và Ấn Độ. Để giảm phát thải khí nhà kính yêu cầu phải sử dụng các công nghệ mới hơn và do vậy giá thành sản phẩm sẽ cao hơn. Điều đó có nghĩa là hiện nay giảm phát thải có tác động xấu tới nền kinh tế do đòi hỏi phải có một lượng tiền rất lớn để đầu tư công nghệ và giá thành cao của sản phẩm làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Mặc dù những điều nêu trên, trong những năm vừa qua Việt Nam đã rất nỗ lực trong giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ năng lượng tái tạo, bao gồm thủy điện, điện gió, điện mặt trời; cải tiến công nghệ để giảm phát thải khí nhà kính của nhiệt điện.

Ngoài ra, đối với các ngành kinh tế ngoài năng lượng, Việt Nam cũng thay đổi công nghệ để giảm phát thải khí nhà kính. Việt Nam đã áp dụng những quy chuẩn công nghệ ngày một cao hơn cho các phương tiện giao thông, đặc biệt là khuyến khích sử dụng xe điện.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam đã và đang khuyến khích cải tiến công nghệ để giảm phát thải khí nhà kính đối với trồng trọt, chăn nuôi và chế biến sản phẩm nông nghiệp. Việt Nam cũng đang thực hiện quản lý tốt hơn chất thải để giảm phát thải khí nhà kính. Việt Nam đã thực hiện những dự án trồng rừng quy mô lớn và bảo vệ rừng để tăng hấp thụ khí nhà kính. Việt Nam cũng đã thực hiện các nghiên cứu về phương pháp thu hồi và lưu giữ lượng khí nhà kính trong khí quyển.

Đặc biệt, vào tháng 11 năm 2021, tại COP 26, Việt Nam đã cam kết thực hiện phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và từ đó tới nay đã triển khai rất nhiều việc để thực hiện cam kết.

Việt Nam cũng là một quốc gia chịu nhiều thiệt hại do thiên tai. Các thiên tai có khả năng gây thiệt hại lớn nhất cho Việt Nam là bão, mưa lớn, lũ lụt, hạn hán và xói lở bờ sông, bờ biển.

Chính phủ Việt Nam và người dân Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực để giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra.

Trước hết, Việt Nam liên tục nâng cấp các cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai như đê điều ngăn ngập lụt, trồng rừng chắn lũ, lũ quét, xói mòn đất, xói lở bờ biển, xây dựng các hồ chứa, hệ thống thủy lợi, tiêu thoát nước chống hạn và lũ lụt, nâng cấp nhà cửa để phòng chống bão.

Thứ hai, Việt Nam liên tục nâng cấp cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai.

Thứ ba, về mặt thể chế, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, quy hoạch và tổ chức khá hoàn chỉnh để phục vụ phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai. Một trong những chính sách phòng chống thiên tai đã phát huy hiệu quả trong những năm qua là chính sách “4 tại chỗ”: chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; phương tiện, vật tư tại chỗ; hậu cần tại chỗ và "3 sẵn sàng": phòng ngừa chủ động; ứng phó kịp thời; khắc phục khẩn trương và hiệu quả.

Để thực hiện các chính sách này, Việt Nam đã xây dựng các bản đồ nguy cơ, rủi ro, cảnh báo thiên tai, trong đó có các vùng có nguy cơ cao, các phương án di dời, sơ tán để phòng tránh thiên tai và các địa điểm tránh trú khi có thiên tai; tăng cường năng lực từ cấp trung ương đến địa phương, xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế phối hợp, tìm kiếm cứu nạn, hỗ trợ người dân khi có thiên tai và khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra. Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế nhằm dự báo, cảnh báo và giảm nhẹ, khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra.

PV: Với thực trạng hiện nay, Việt Nam cần có những chính sách ứng phó ra sao trong việc bổ sung sự hiểu biết và nâng cao năng lực trong công tác quản lý rủi ro ở các cấp khác nhau, thưa ông?

PGS.TS Vũ Thanh Ca: Như đã trình bày ở trên, thực tế là hiện nay Việt Nam đã có hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, quy hoạch và nguồn lực để phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai. Việc tuyên truyền về thiên tai và thiệt hại do thiên tai đã được làm thường xuyên ở tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Cùng với nâng cấp cơ sở hạ tầng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, quy hoạch để phục vụ phòng chống thiên tai, chính sách 4 tại chỗ và 3 sẵn sàng cũng được triển khai thường xuyên tại tất cả các cấp chính quyền và cộng đồng dân cư, đặc biệt là những vùng chịu rủi ro thiên tai cao.

Tuy có những nỗ lực như nêu trên, thiệt hại do thiên tai tại Việt Nam vẫn còn rất lớn. Theo báo cáo của Chính phủ, trong năm 2023 trên cả nước đã xảy ra 5.331 sự cố, thiên tai làm 1.129 người chết, mất tích. Thiệt hại về kinh tế do thiên tai ước tính trên 9.324 tỷ đồng.

Thiệt hại do thiên tai có nhiều nguyên nhân. Đầu tiên phải kể đến công tác dự báo, cảnh báo thiên tai vẫn còn có những hạn chế nhất định. Ngoài ra còn là nhận thức về phòng chống thiên tai của một số cán bộ, người dân vẫn chưa được tốt, còn chủ quan trong ứng phó thiên tai. Một phần do hạn chế về kinh phí, cơ sở hạ tầng cũng như năng lực phòng chống thiên tai của chính quyền và người dân.

Một nguyên nhân nữa là mặc dù Việt Nam đã đầu tư khá nhiều vào các nghiên cứu xác định nguyên nhân và xây dựng các giải pháp ứng phó với thiên tai nhưng vẫn còn một số giải pháp ứng phó chưa có đầy đủ cơ sở khoa học. Bên cạnh đó còn nguyên nhân do thiên tai ngày càng gia tăng về cường độ và tần suất, với các thiên tai lớn vượt quá khả năng ứng phó của chính quyền và người dân.

Để khắc phục những điểm còn yếu kém, tôi cho rằng Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp như: Cần tiếp tục đầu tư vào các nghiên cứu để xác định nguyên nhân và xây dựng các giải pháp ứng phó với thiên tai, đảm bảo mọi giải pháp ứng phó với thiên tai đều dựa trên những cơ sở khoa học đầy đủ. Định kỳ thực hiện phân tích rủi ro thiên tai cũng như các nguồn lực hiện có để xếp thứ tự các giải pháp ứng phó với thiên tai, trên cơ sở đó rà soát, chỉnh sửa, ban hành lại và triển khai thực hiện kế hoạch ứng phó thiên tai đảm bảo khả thi và hiệu quả là một việc phải thực hiện. Đồng thời, cần liên tục tăng cường năng lực cảnh báo, dự báo và ứng phó với thiên tai, trong đó chú trọng tuyên truyền, nâng cao nhận thức về thiên tai, thiệt hại do thiên tai và các giải pháp ứng phó với thiên tai.

PV: Đứng trước những tác hại của biến đổi khí hậu và các hiện tượng thiên tai gây nhiều thảm họa cho đất nước, Nhật Bản là quốc gia đã và đang rất quyết liệt trong công tác giảm thiểu biến đổi khí hậu và kiểm soát thảm họa do thiên nhiên gây ra. Ông cho rằng Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm gì từ quốc gia này trong cuộc chiến biến đổi khí hậu?

PGS.TS Vũ Thanh Ca: Nhật Bản là một quốc gia chịu rất nhiều tác động và thiệt hại do thiên tai gây ra. Nằm trên vành đai lửa Thái Bình Dương, Nhật Bản liên tục phải chịu những trận động đất, sóng thần mạnh, thậm chí phun trào núi lửa có sức hủy diệt rất lớn. Ngoài ra, bão mạnh kèm theo sóng mạnh, nước biển dâng cao, mưa lớn gây ngập lụt, lũ quét và xói, sạt lở đất hàng năm cũng gây ra những thiệt hại rất lớn.

Ví dụ, trận đại động đất gây sóng thần có độ cao cực đại tới 40,5 m tại Tohoku, Nhật Bản vào năm 2011 đã tàn phá một vùng có chiều rộng lớn nhất tới 10km ven bờ biển các tỉnh thuộc vùng Tohoku của Nhật Bản. Sóng thần đã làm ngừng hoạt động của hệ thống làm mát, gây ra vụ nổ hạt nhân của nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi, giết chết nhiều người và làm ô nhiễm phóng xạ trong một khu vực rộng lớn trên biển và trên đất liền.

Theo số liệu thống kê, trong trận đại động đất, sóng thần này có 19.759 người chết, 6.242 người bị thương, và 2.553 người mất tích. Theo báo cáo của Chính phủ Nhật, vào năm 2015 vẫn còn 228.863 người sơ tán chưa được trở về nhà. Tổng thiệt hại kinh tế của trận đại động đất, sóng thần được ước tính là hơn 300 tỷ USD và nó làm cho tốc độ tăng trưởng GDP của nước Nhật giảm khoảng 0,47 % trong năm 2012. Đợt mưa lớn năm 2018 tại khu vực Kansai đã làm 225 người chết, 13 người mất tích và hơn 8 tr. người thuộc 23 tỉnh được sơ tán. Những người chết chủ yếu do lũ bùn, sạt lở đất, trôi ô tô do lũ. Nhiều người chết đã phớt lờ lệnh sơ tán và ở lại nhà, mặc dù đã liên tục được cảnh báo phải sơ tán. Thiệt hại do đợt mưa lũ được ước tính lên tới khoảng 10 tỷ USD.

Phương pháp phòng chống thiên tai ở Nhật Bản tập trung vào 5 điểm chính: 1) nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ phòng chống thiên tai; 2) tăng cường hệ thống phòng chống thiên tai, bao gồm cơ sở hạ tầng, các phương tiện, thiết bị và các giải pháp khác; 3) xây dựng và thực hiện các dự án để tăng cường năng lực cho đất nước trong phòng chống thiên tai, 4) các giải pháp cứu hộ, cứu nạn và phục hồi sau thiên tai; và 5) cải thiện hệ thống thông tin, truyền thông phục vụ phòng chống thiên tai.

Do có trình độ khoa học công nghệ cao và điều kiện kinh tế - tài chính tốt, Chính phủ Nhật Bản đã đầu tư rất nhiều cho những công trình xây dựng chống sạt lở đất ở ven núi, đồi; chống động đất ở các tòa nhà cao tầng và nhà dân; chống sóng thần ở vùng bờ biển.

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc xây dựng các công trình đảm bảo chống được thiên tai với tần suất rất hiếm, thí dụ 100 năm, 200, 500 năm xảy ra một lần có chi phí rất cao và không đảm bảo hiệu quả kinh tế.

Vì vậy, thay vì chỉ đầu tư vào các giải pháp cứng như xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà nước đầu tư vào các giải pháp kết hợp cứng và mềm xây dựng cơ sở hạ tầng vừa phải trên cơ sở khoa học đầy đủ kết hợp với nghiên cứu nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai; xây dựng các bản đồ rủi ro thiên tai và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở có tính đến rủi ro thiên tai; tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ chính quyền và người dân về thiên tai, phương pháp phòng tránh thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, cách chuẩn bị đối phó với thiên tai v.v. Việc giáo dục, đào tạo về thiên tai được thực hiện ở tất cả các cấp học. Chính quyền tận dụng tất cả các kênh truyền thông và các công nghệ hiện đại nhất để đưa các thông tin về thiên tai tới người dân.

Nhận thức rằng biến đổi khí hậu sẽ làm gia tăng thiên tai và thiệt hại do thiên tai, Chính phủ Nhật Bản đã có những chương trình rất bài bản để đảm bảo giảm phát thải khí nhà kính theo đúng các kế hoạch đã định sẵn và đảm bảo đạt được phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 nhằm giảm nhẹ biến đổi khí hậu.

PV: Với những phân tích về kinh nghiệm của Nhật Bản, theo ông để phát triển hệ thống ứng phó biến đổi khí hậu và quản lý thiên tai hiệu quả ở Việt Nam, chúng ta có thể học hỏi và vận dụng kinh nghiệm của Nhật Bản ra sao, thưa ông?

PGS.TS Vũ Thanh Ca: Mặc dù điều kiện của Nhật Bản rất khác với Việt Nam, nhưng những kinh nghiệm trong việc phát triển hệ thống ứng phó biến đổi khí hậu và quản lý thiên tai hiệu quả của Nhật Bản rất thích hợp để Việt Nam học tập.

Đối với Việt Nam, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để đảm bảo chống lại tất cả các loại thiên tai là cực kỳ tốn kém và không khả thi. Vì vậy, Việt Nam cần nghiên cứu, áp dụng những kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc kết hợp các giải pháp cứng và mềm; trong đó các giải pháp cứng được thực hiện theo một lộ trình cụ thể, phù hợp với nền kinh tế nhưng các giải pháp mềm cần được đầu tư thực hiện càng sớm càng tốt vì chi phí cho các giải pháp mềm ít hơn rất nhiều.

Đối với giảm nhẹ biến đổi khí hậu, việc đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 là cực kỳ thách thức. Việt Nam cần nghiên cứu, đánh giá và xây dựng lộ trình giảm phát thải của các ngành kinh tế phù hợp để vừa đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế, vừa giảm phát thải.

Trong số các ngành kinh tế, cần chú trọng quan tâm tới nông nghiệp và năng lượng là 2 ngành quan trọng nhất. Việc giảm phát thải khí nhà kính yêu cầu phải đổi mới công nghệ để giảm sử dụng năng lượng cũng như giảm phát thải, nghiên cứu sử dụng những dạng năng lượng ít phát thải.

Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, Việt Nam nên nghiên cứu sử dụng năng lượng hạt nhân kết hợp với năng lượng tái tạo gió, mặt trời, năng lượng hydro xanh, ammoniac xanh v.v. Ngoài ra, Việt Nam cần cải tiến phương pháp canh tác nông nghiệp, xử lý chất thải để giảm phát thải khí metan, khí N2O.

PV: Xin cảm ơn ông!

Bảo Loan (thực hiện)