Phát huy tính sáng tạo, chủ động  thích ứng biến đổi khí hậu, phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long

Thứ bảy, 2/10/2021, 08:28 (GMT+7)
logo Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu (Nghị quyết 120) là nguồn cảm hứng để người dân, doanh nghiệp và các cấp chính quyền phát huy tính sáng tạo, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu một cách có hiệu quả nhất để Đồng bằng sông Cửu Long thay đổi toàn diện, phát triển bền vững.

Phát huy tính sáng tạo, chủ động  thích ứng biến đổi khí hậu, phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long

Ảnh minh họa  

Thay đổi tư duy trong phát triển vùng, lấy con người làm trung tâm

Vùng ĐBSCL có 13 tỉnh, thành phố, chiếm 12% diện tích và 19% dân số cả nước, là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam, đóng góp 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản,… Đối với thế giới, đánh giá của Ngân hàng Thế giới cho thấy, ĐBSCL là vựa lúa chín chiếm khoảng 20% trong lượng gạo thương mại toàn cầu và chính miền Tây đã góp phần đảm bảo lương thực ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh.

Những chính sách, những giải pháp và hành động của Đảng, Chính phủ trong thời gian qua không đơn thuần được nhìn dưới góc độ là những chính sách phát triển kinh tế, mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm và sự sẻ chia của đồng bào, của nhân dân cả nước đối với người dân miền Tây: Những hạt gạo, trái cây, con cá hàng ngày chúng ta ăn, phần nhiều trong số đó được lắng đọng từ những giọt phù sa, con nước qua bàn tay và sự lao động cần mẫn của người dân ĐBSCL.

Đặc biệt, Nghị quyết 120 là bước đột phá lớn, có ý nghĩa định hình chiến lược phát triển bền vững ĐBSCL theo hướng tổng thể, đồng thời, tích hợp với tầm nhìn dài hạn và khát vọng về một vùng ĐBSCL trù phú, thịnh vượng, lấy con người làm trung tâm, coi việc sử dụng hiệu quả tiết kiệm và bền vững tài nguyên nước, đất đai và các tài nguyên. Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành cho biết: Nghị quyết đã tạo chuyển biến căn bản về mặt nhận thức, tư duy phát triển ĐBSCL theo hướng “thuận thiên”. Từ chỗ phát triển dựa vào tài nguyên thiên nhiên ưu đãi như điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn lợi thủy sản,… chuyển đổi sang phát triển dựa vào năng suất lao động, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị. Tư duy phát triển thay đổi toàn diện, coi nước mặn, nước lợ là tài nguyên để chuyển đổi cơ cấu, phát triển sản xuất hiệu quả. Trên cơ sở đó, đa dạng hóa sản phẩm như lúa gạo, cây ăn trái, thủy sản nước ngọt, nước lợ, nước mặn.

Trong triển khai Nghị quyết, ĐBSCL được coi là thể thống nhất trong đa dạng, từ đó triển khai nhiều giải pháp, chương trình, quy hoạch mang tính liên ngành, liên vùng như công tác quy hoạch, công tác dự báo, cảnh báo cho tổng thể vùng; các giải pháp ứng phó với BĐKH, phòng chống thiên tai trên phạm vi toàn vùng, từ đó triển khai các giải pháp, biện pháp về tích nước, chuyển đổi thời gian canh tác, mùa vụ, khắc phục xâm nhập mặn; đầu tư các công trình có tính kết nối toàn vùng như đường giao thông, thủy lợi. Chính phủ đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt, bao gồm hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách. Bên cạnh đó, Chính phủ đã tăng đầu tư nguồn lực phát triển cơ sở hạ tầng với vai trò là “đòn bẩy” nhằm thu hút thêm sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước; thúc đẩy chuyển đổi quy mô lớn, phát huy tiềm năng thế mạnh của vùng và các tiểu vùng, tăng cường kết nối kinh tế - hạ tầng nội vùng và giữa ĐBSCL với TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam Bộ. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài, các đối tác quốc tế đã đầu tư triển khai nhiều dự án trong các lĩnh vực nông nghiệp, giao thông, phát triển năng lượng tái tạo, logistics,… Có thể thấy, những dự án này làm thay đổi bộ mặt của vùng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế cả nước. Bức tranh đầu tư cho ĐBSCL đã có nhiều mảng màu rất sáng. Về phía người dân, từ chuyển biến về nhận thức đã dẫn đến các thay đổi về tư duy và hành động, bám sát các chủ trương, chính sách và chỉ đạo điều hành của Chính phủ, tích cực tham gia vào chuyển đổi quy mô lớn, phát triển chuỗi giá trị, từ đó, nâng cao giá trị gia tăng về kinh tế và thương hiệu của toàn vùng. Chúng ta có thể thấy được minh chứng cho việc này thông qua hình ảnh được mùa của nhân dân vùng ĐBSCL trong những ngày đầu Xuân Tân Sửu. Trong bối cảnh ĐBSCL chịu ảnh hưởng của các đợt xâm nhập mặn khốc liệt, nhưng người dân vẫn có một vụ thu hoạch được mùa, được giá.

Khó khăn và một số giải pháp

Những năm qua, việc ban hành triển khai Nghị quyết 120 tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tư duy của các cấp, các ngành trong xây dựng chính sách, xác định các chương trình chiến lược, các dự án cấp bách. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức vẫn còn nhiều. BĐKH, thiên tai đang ngày càng diễn ra nhanh, phức tạp và sẽ tiếp tục khó lường, khó dự báo do tính thất thường, cực đoan, đặc biệt là những tác động ngắn hạn. Khi các nỗ lực toàn cầu, đặc biệt là giảm phát thải khí nhà kính, chưa đạt được như kỳ vọng; hoạt động khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn sông Mê Công ngày càng phức tạp; cơ chế điều phối tiểu vùng khó phát huy được hiệu quả, ĐBSCL sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều tác động bất lợi: Thiếu cát, thiếu màu, thiếu nước sẽ còn tiếp diễn nghiêm trọng. Nghị quyết mới được triển khai thực hiện hơn 3 năm, trong khi mục tiêu, tầm nhìn mang tính chiến lược, dài hạn, cần có thời gian và nguồn lực để đảm bảo triển khai, cụ thể hoá thành những hành động, nhiệm vụ cụ thể. Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cho biết, để khắc phục, đòi hỏi chúng ta phải hành động nhanh hơn, nhất là trong 5 năm tới, trong đó chủ trương phát triển thuận thiên, lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, cần phải được quản lý tổng hợp trên toàn lưu vực cần tiếp tục được quán triệt trong mọi quyết sách, cụ thể là:

Thứ nhất, về thể chế, cơ chế chính sách: Phát huy vai trò Hội đồng Điều phối vùng với sự tham gia tích cực hiệu quả của các địa phương trong vùng; tăng cường rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, đặc biệt là huy động nguồn lực thông qua đối tác công - tư, tập trung đất đai phục vụ chuyển đổi quy mô lớn, quy hoạch các khu vực trồng lúa chuyển đổi mục đích linh hoạt để chủ động trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất phù hợp với điều kiện tự nhiên từng năm. Sớm ban hành quy hoạch vùng làm căn cứ để triển khai kế hoạch phát triển KT-XH của các tỉnh; triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp phát triển các tỉnh, thành phố theo các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước.

Thứ hai, ưu tiên bố trí nguồn lực thực hiện các dự án đa mục tiêu, kết nối vùng phục vụ sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân. Khẩn trương bổ sung nguồn vốn thực hiện Chương trình hỗ trợ chính sách phát triển vùng; nguồn vốn đầu tư thông qua các định chế tài chính, tổ chức tín dụng bao gồm Quỹ BVMT Việt Nam. Ưu tiên thực hiện các dự án hạ tầng đa mục tiêu về thủy lợi, cấp nước sạch, thoát nước, giao thông, ứng phó với BĐKH; kết nối vùng, liên vùng thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, phát triển thương mại, tạo chuỗi giá trị. Cụ thể: Nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ trong vùng và kết nối với TP. Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ. Tập trung phát triển có trọng điểm hệ thống giao thông đường bộ, thủy nội địa, nhất là vùng ven biển để phát triển kinh tế biển theo hướng thuận thiên. Kiểm soát lũ, xâm nhập mặn, cấp ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp; hệ thống trữ ngọt cung cấp nước sinh hoạt phục vụ người dân khu vực thường xảy ra xâm nhập mặn; đầu tư xử lý sạt lở bờ sông và củng cố đê biển. Phát triển hạ tầng đô thị xanh thông minh, thích ứng với BĐKH; cấp nước an toàn,...; nâng cấp mạng lưới điện nông thôn.

Thứ ba, tăng cường điều tra cơ bản, năng lực quan trắc, dự báo, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu.

Thứ tư, thúc đẩy chuyển đổi quy mô lớn, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu hợp lý.

Thứ năm, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động và tăng cường hợp tác quốc tế.

Thứ sáu, tổng kết những bài học kinh nghiệm để nhân rộng cho các vùng sinh thái khác trong cả nước, đóng góp mô hình phát triển bền vững cho thế giới.

Tại Hội nghị Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết, Thủ tướng giao Bộ TN&MT chủ trì thực hiện, để chuẩn bị thay thế quy hoạch sử dụng đất các tỉnh ĐBSCL đến năm 2020 đã hết thời hạn. Thủ tướng cũng cho biết, Luật Đất đai sẽ được lấy ý kiến sửa đổi vào cuối năm nay. Thủ tướng chỉ đạo ưu tiên nguồn lực của Nhà nước cho đầu tư cơ sở hạ tầng nhiều hơn nữa cho vùng ĐBSCL; đẩy nhanh việc triển khai và thực hiện các dự án đã được quy hoạch. Thủ tướng đề nghị phát triển cả hàng không, đường bộ, đường thủy và đường sắt tạo động lực lớn cho phát triển kinh tế vùng đất “Chín Rồng”. Nghiên cứu cơ chế đánh thuế phát thải để khuyến khích giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời qua đó chia sẻ trở lại nguồn thu để hỗ trợ các địa phương bị tác động nặng bởi BĐKH.

 

NGUYỄN LINH

          Bộ Tài nguyên và Môi trường