ĐBQH Nguyễn Ngọc Sơn nêu rõ, môi trường là yếu tố nền tảng không thể thay thế, một nền kinh tế xanh, có môi trường sống tốt sẽ là lợi thế cạnh tranh cho một kỷ nguyên mới. Đồng thời nhấn mạnh, phát triển kinh tế - xã hội sẽ không thể bền vững nếu môi trường bị coi là hậu kiểm, "đi sau" hay "chốt chặn rủi ro".
Đóng góp ý kiến vào kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”, đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn - Đoàn ĐBQH TP. Hải Phòng nêu rõ, trong bối cảnh đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số, nhiệm kỳ mới phải đối mặt với bài toán lớn - phát triển mà không hủy hoại môi trường. Để đạt được mục tiêu này sẽ tạo áp lực rất lớn lên môi trường, bởi tăng trưởng cao đòi hỏi gia tăng khai thác tài nguyên, năng lượng, sản xuất công nghiệp, logistics và xây dựng hạ tầng. Vì vậy, nếu không kiểm soát chặt chẽ sẽ bùng phát ô nhiễm, suy thoái hệ sinh thái, khủng hoảng sức khỏe cộng đồng, tăng chi phí khắc phục.
Đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn khẳng định môi trường là yếu tố nền tảng không thể thay thế; tài nguyên, khí hậu, hệ sinh thái là "đầu vào tự nhiên" cho mọi hoạt động sản xuất, sinh hoạt, dịch vụ. Mất môi trường là mất khả năng duy trì sản xuất, mất chất lượng sống và làm suy giảm năng suất xã hội, do đó môi trường là hạ tầng thiết yếu cho phát triển. Môi trường quyết định tính bền vững, không phải tốc độ tăng trưởng. Một quốc gia có thể tăng GDP nhanh trong 5 đến 10 năm, nhưng nếu đi kèm suy giảm chất lượng không khí, ô nhiễm sông hồ, mất rừng, suy thoái đất, mất đa dạng sinh học, chi phí y tế, thiên tai ngày càng gia tăng, giá phải trả sẽ triệt tiêu thành quả tăng trưởng và đẩy xã hội vào vòng xoáy phát triển rồi phá hủy, rồi lại chữa.
Ngoài ra, môi trường là nền tảng thu hút đầu tư chất lượng cao, không gây hủy hoại dài hạn. Các tập đoàn công nghệ cao, chuỗi cung ứng quốc tế đều yêu cầu tiêu chuẩn ESG, môi trường, khí hậu, phát thải. Đại biểu nhấn mạnh, nếu môi trường yếu kém, Việt Nam sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng xanh toàn cầu. Ngược lại, một nền kinh tế xanh, có môi trường sống tốt sẽ là lợi thế cạnh tranh cho một kỷ nguyên mới. Do vậy, phát triển kinh tế - xã hội sẽ không thể bền vững nếu môi trường tiếp tục bị coi là hậu kiểm, "đi sau" hay "chốt chặn rủi ro".
Theo đại biểu, Việt Nam là nước đang phát triển, GDP bình quân đầu người chỉ hơn 4.700 USD, vốn tích lũy còn mỏng, năng suất lao động chưa cao. Trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI với nhiều nước ở khu vực, nếu môi trường bị siết quá sớm, quá chặt thì có nguy cơ giảm hấp dẫn đầu tư. Việc thể chế hóa 03 trụ cột "Môi trường - kinh tế - xã hội" chưa đồng bộ. Luật Bảo vệ môi trường 2020 là nỗ lực lớn, nhưng chưa đủ mạnh để “trấn giữ” vai trò trụ cột nếu Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu và các luật liên quan chưa lồng ghép đầy đủ tiêu chí môi trường. Thuế môi trường chủ yếu thu từ xăng dầu, không tái đầu tư hiệu quả, phí xả thải chưa được thu thực chất, tín chỉ carbon, DPP, kinh tế tuần hoàn… mới dừng ở chính sách, thiếu thực thi...
Do vậy, đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn cho rằng, chỉ khi nào coi môi trường là một trụ cột đúng nghĩa, mới có thể gắn trách nhiệm bảo vệ môi trường vào đầu tư công, đầu tư tư nhân; áp dụng công cụ thị trường: thuế xanh, tín chỉ carbon, phí xả thải; lồng ghép môi trường vào quy hoạch, đấu thầu, ngân sách, chỉ tiêu tăng trưởng; định giá được tài nguyên, dịch vụ hệ sinh thái để đưa vào hạch toán quốc gia. Điều này cũng là cơ sở thể chế hóa các công cụ tăng trưởng xanh.

Thực tế đang chứng minh, đầu tư FDI chất lượng cao chỉ đến với những nơi có tiêu chuẩn môi trường rõ ràng như: Apple, Samsung, Lego, Nike, Panasonic… đều đặt ESG và phát thải carbon là điều kiện tiên quyết. Dự án LEGO chỉ đầu tư vì cam kết “điện tái tạo 100% và hệ thống tuần hoàn nước”. Nếu không có tiêu chuẩn môi trường rõ ràng, nhất quán, Việt Nam sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng xanh toàn cầu, kể cả khi có giá nhân công rẻ. Vì thế, môi trường minh bạch là “hạ tầng thể chế” hấp dẫn đầu tư, chứ không phải chi phí cản trở. Chính môi trường là động lực cho đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp công nghệ nội địa. Không đợi có công nghệ rồi mới bảo vệ môi trường, mà chính môi trường sẽ tạo ra nhu cầu công nghệ.
Kiến nghị một số giải pháp trọng tâm, đại biểu Nguyến Ngọc Sơn cho rằng cần tiếp tục thể chế hóa nguyên tắc môi trường là trụ cột bắt buộc trong 03 trụ cột phát triển bền vững. Trong đó, tập trung phát triển công nghiệp môi trường như một ngành kinh tế độc lập. Đây là nền tảng để Việt Nam tự chủ thiết bị, công nghệ, dịch vụ xử lý, tái chế, quan trắc thay vì lệ thuộc nhập khẩu, tạo chuỗi giá trị công nghiệp xanh, thu hút đầu tư chất lượng cao, làm nền cho kinh tế tuần hoàn, xuất khẩu công nghệ môi trường trong tương lai.
Triển khai kinh tế tuần hoàn, thay đổi mô hình sản xuất, tiêu dùng. Lồng ghép môi trường vào quy hoạch, đầu tư công, áp dụng công cụ tài chính và kinh tế môi trường. Biến môi trường thành hành vi kinh tế thông qua phí, thuế, tín chỉ, đấu giá, thị trường, giảm phụ thuộc ngân sách nhà nước, thúc đẩy xã hội hóa. Xây dựng hệ thống dữ liệu, quan trắc, chỉ số môi trường quốc gia, giúp Quốc hội, Chính phủ, người dân giám sát được chất lượng môi trường, tiến độ cam kết xanh.
Đồng thời kết nối chính sách môi trường với hội nhập và đầu tư xanh. Các hiệp định EVFTA, CPTPP, JETP, CBAM… đều ràng buộc tiêu chuẩn môi trường, doanh nghiệp không đáp ứng sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng, thị trường xuất khẩu.
Bên cạnh đó, tăng đầu tư công và chi ngân sách cho môi trường. Bố trí vốn đầu tư công trung hạn cho các dự án xử lý chất thải liên tỉnh, sàn tín chỉ carbon, quan trắc tự động. Xây dựng hệ thống công cụ kinh tế môi trường. Điều chỉnh và thực hiện thu phí xả thải tại các khu công nghiệp, đô thị đảm bảo phù hợp. Sớm vận hành sàn tín chỉ carbon quốc gia, áp dụng bảo hiểm môi trường, đấu thầu dịch vụ môi trường, công khai hợp đồng môi trường theo kết quả.
Cùng với đó, gắn môi trường với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Hỗ trợ doanh nghiệp triển khai DPP (hộ chiếu sản phẩm số), công nghệ AI, IoT, blockchain trong chuỗi quản lý rác, nước, khí. Mở dữ liệu môi trường quốc gia để người dân, doanh nghiệp cùng tham gia giám sát và phát triển dịch vụ. Tạo “áp lực thị trường” từ hội nhập quốc tế. Gắn thực thi môi trường với cam kết ESG, Net Zero,… để doanh nghiệp bắt buộc tuân thủ theo chuỗi cung ứng toàn cầu. Ban hành tiêu chí sản phẩm xanh, doanh nghiệp xanh, công trình xanh để tạo phân khúc thị trường bền vững.