
Ảnh minh họa.
Giảm phát thải khí nhà kính
Việt Nam đã hoàn thành cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) gửi Ban Thư ký Công ước Khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC). NDC cập nhật đã xác định những đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) và thích ứng với BĐKH do Việt Nam cam kết, phù hợp hơn với hiện trạng, dự báo phát triển KT-XH của quốc gia đến 2030; bảo đảm phù hợp với các mục tiêu của Chiến lược phát triển KT-XH, Chiến lược quốc gia về BĐKH, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và Chiến lược phòng chống thiên tai.
Bằng nguồn lực trong nước, đến năm 2030 Việt Nam sẽ giảm 9% tổng lượng phát thải KNK so với kịch bản phát triển thông thường và tăng đóng góp lên tới 27% khi có hỗ trợ quốc tế thông qua hợp tác song phương, đa phương và thực hiện các cơ chế mới theo Thỏa thuận Paris. Các biện pháp giảm nhẹ phát thải KNK giai đoạn 2021 - 2030 được xác định cho các lĩnh vực: Lĩnh vực năng lượng: Thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải KNK trong sản xuất và sử dụng năng lượng trong các phân ngành công nghiệp năng lượng; sản xuất công nghiệp và xây dựng; giao thông vận tải; gia dụng, nông nghiệp và dịch vụ thương mại. Lĩnh vực nông nghiệp: Thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải KNK thông qua ứng dụng các giải pháp quản lý, công nghệ trong trồng trọt, chăn nuôi; cải thiện khẩu phần ăn cho vật nuôi; chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng; thay đổi phương thức sử dụng đất; công nghệ xử lý và tái sử dụng phụ phẩm, chất thải trong sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi; phát triển nông nghiệp hữu cơ. Lĩnh vực sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp: Thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải và hấp thụ KNK trong quản lý đất rừng, đất trồng trọt, đất đồng cỏ, đất ngập nước và các loại đất khác và phát triển các mô hình nông lâm kết hợp để nâng cao trữ lượng các-bon, bảo tồn đất. Lĩnh vực quản lý chất thải: Thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải KNK thông qua quản lý, phát triển và áp dụng công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp thông thường và chất thải rắn đặc thù nhằm hạn chế phát thải KNK. Lĩnh vực các quá trình công nghiệp: Thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải KNK trong sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp hoá chất và quản lý việc tiêu thụ các chất HFCs. Ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Cục BĐKH, Trưởng nhóm công tác ASOEN Việt Nam về BĐKH (AWGCC) cho biết, các quá trình công nghiệp là lĩnh vực mới trong NDC cập nhật của Việt Nam. Về giảm nhẹ phát thải KNK, Việt Nam tăng cam kết cả phần quốc gia tự thực hiện và qua các hợp tác song phương, đa phương khác. Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực đưa các cam kết vào Luật BVMT năm 2020. Điều này có nghĩa là tất cả mọi người phải thực hiện không chỉ Chính phủ. Ở cấp cơ sở, Bộ TN&MT Việt Nam đã trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định xác định cơ sở phát thải lớn cần giảm phát thải KNK. Thông qua hình thức này chúng ta thấy các bên đều tham gia ứng phó với BĐKH. Thị trường các-bon là công cụ quan trọng để giảm phát thải KNK. Thách thức của Việt Nam là thông tin, khi thu thập thông tin từ các bộ, ngành khác nhau, cần thời gian để xử lý số liệu, làm như thế nào để tất cả mọi người cùng thống nhất việc đưa ra cam kết, bên cạnh đó tài chính là một trong những thách thức.
TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH cho biết, Thoả thuận Paris về BĐKH được thông qua tại Hội nghị COP21. Đây là văn bản toàn cầu đầu tiên ràng buộc trách nhiệm pháp lý của tất cả các bên tham gia UNFCC trong giảm nhẹ KNK, nguyên nhân gây ra BĐKH. Nội dung quan trọng nhất của Thoả thuận Paris là quy định việc các bên tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện NDC; giám sát, đánh giá việc thực hiện và cung cấp nguồn lực tài chính, công nghệ, tăng cường năng lực để thực hiện NDC, nhằm ứng phó với BĐKH toàn cầu trong điều kiện hiện tại và dự báo tương lai. So với NDC đã đệ trình, đóng góp về giảm nhẹ phát thải KNK trong NDC cập nhật của Việt Nam trong trường hợp quốc gia tự thực hiện đã tăng cả về lượng giảm phát thải và tỷ lệ giảm phát thải. Cụ thể, lượng giảm phát thải tăng thêm 21,2 triệu tấn CO2tđ (từ 62,7 triệu tấn CO2tđ lên 83,9 triệu tấn CO2tđ) tương ứng với tỷ lệ giảm phát thải tăng 1% (từ 8% lên 9%). Mức đóng góp về giảm nhẹ phát thải KNK khi có hỗ trợ quốc tế sẽ tăng từ 25% lên 27%, tức lượng giảm phát thải tăng thêm 52,6 triệu tấn CO2tđ (từ 198,2 triệu tấn lên 250,8 triệu tấn CO2tđ). Trong điều kiện phát triển KT-XH của một nước đang chịu nhiều tác động của BĐKH, NDC cập nhật của Việt Nam đã thể hiện nỗ lực cao nhất của quốc gia trong góp phần giảm nhẹ BĐKH toàn cầu.
Phát triển nền kinh tế triển xanh, bền vững, giảm phát thải
Nhằm thích ứng với BĐKH, Nam đã dành hàng tỷ USD cho phòng chống và phục hồi trước những thiên tai do BĐKH như lũ lụt, bão, hạn hán,… với cường độ ngày càng khốc liệt; ban hành nhiều chính sách, pháp luật để triển khai thực hiện, như: Nghị quyết số 24-NQ/TW; Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,… Tại Hội nghị COP26 vừa qua, Thông điệp của Thủ tướng về việc Việt Nam sẽ chuyển mạnh sang mô hình phát triển xanh, bền vững, giảm phát thải được nhiều nhà đầu tư hoan nghênh, quan tâm. Các doanh nghiệp, nhà đầu tư đánh giá cao sự ổn định chính trị của Việt Nam, quyết tâm và khát vọng mạnh mẽ của lãnh đạo và người dân Việt Nam trong quá trình phát triển nói chung và chuyển đổi năng lượng, PTBV nói riêng, đánh giá Việt Nam là một trong số ít các nước có tiềm năng lớn nhất về năng lượng tái tạo.
Mặc dù là quốc gia đang phát triển với nguồn lực hạn chế, nhưng Việt Nam luôn theo đuổi mục tiêu PTBV; phát triển kinh tế các-bon thấp và hướng tới nền kinh tế tuần hoàn đã trở thành hướng đi chủ đạo trong chính sách, chiến lược của quốc gia. Phát triển các-bon thấp, chống chịu với BĐKH. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ nỗ lực để triển khai các chiến lược, kế hoạch và các hành động cụ thể; ví dụ như giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch và đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, phát triển tài chính xanh và thị trường các-bon trong tương lai. PTBV ứng phó BĐKH, giảm phát thải KNK là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và là trách nhiệm chung của tất cả các quốc gia, các nền kinh tế và doanh nghiệp; đòi hỏi sự chung tay hành động. Trong các quyết sách của mình, nhà nước cần tính đến các lợi ích lâu dài, có cách tiếp cận toàn diện, từ hạ tầng, tài chính, thương mại đến BVMT và lao động, xã hội,… Nhà nước không thể hành động thay các chủ thể trong xã hội mà chỉ đóng vai trò khuyến khích bằng cách tạo dựng thể chế, lợi ích phù hợp để huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp, người dân, phát huy các dự án công tư cho tăng trưởng xanh. Mỗi tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nên có kế hoạch và lộ trình cắt giảm khí thải tuân thủ mục tiêu, các chỉ số quy định của quốc gia về kiểm soát mức phát thải KNK, tiêu hao năng lượng, xanh hoá các ngành kinh tế, lối sống và tiêu dùng; đầu tư cho tương lai khi hướng vào các dự án năng lượng sạch, công nghệ mới, PTBV đất nước.
NGUYỄN HOÀNG
Bộ Tài nguyên và Môi trường