Phát triển ngành Khí tượng Thủy văn có vai trò tương xứng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội

Thứ năm, 30/9/2021, 19:03 (GMT+7)
logo Dự thảo Chiến lược phát triển ngành Khí tượng Thủy văn đến năm 2030, tầm nhìn 2045 với mục tiêu cục thể đó là: Đến năm 2030

Dự thảo Chiến lược phát triển ngành Khí tượng Thủy văn đến năm 2030, tầm nhìn 2045 với mục tiêu cục thể đó là: Đến năm 2030, phát triển ngành Khí tượng Thủy văn có vai trò tương xứng, là một phần quan trọng của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, năng động, nhanh và bền vững, đổi mới sáng tạo, hoạt động phục vụ hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, điều hành chính sách, phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu; xã hội hóa, hình thành được nền công nghiệp khí tượng thủy văn phục vụ đa mục tiêu, đa lĩnh vực. Đến năm 2045, trình độ, năng lực Ngành thuộc các nước tiên tiến trên thế giới.

Những năm vừa qua, với sự đầu tư của Đảng, Nhà nước, hệ thống dự báo, cảnh báo KTTV từ trung ương đến địa phương được tổ chức theo 3 cấp dự báo, công nghệ dự báo, cảnh báo KTTV không ngừng được đổi mới, phát triển. Công nghệ dự báo số đã được nghiên cứu và triển khai ứng dụng nghiệp vụ tại Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia (Trung tâm) và một số Đài KTTV khu vực. Một số mô hình khu vực phân giải cao như mô hình HRM của Đức, WRF của Mỹ, ECMWF của châu Âu,… cùng với các hệ thống dự báo tổ hợp hạn ngắn và hạn vừa đã và đang được vận hành hiệu quả tại Trung tâm. Với việc ứng dụng hệ thống mô hình dự báo thời tiết số trị, các đơn vị dự báo nghiệp vụ trực thuộc Trung tâm đã tiến hành dự báo tới các địa điểm cụ thể như thị trấn, thị xã, thành phố, với khoảng 600 điểm; phát hành bản tin dự báo KTTV đa dạng, thông tin dự báo chi tiết và từng bước nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, không khí lạnh; đồng thời, tăng cường các bản tin dự báo KTTV biển, đặc biệt là thời tiết biển khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước và phục vụ hiệu quả việc phát triển kinh tế biển. Đã tiến hành cải tiến, thay đổi, điều chỉnh cả về hình thức và nội dung các bản tin dự báo, cảnh báo theo hướng rõ hơn, chi tiết hơn về ảnh hưởng của bão, mưa, lũ, cụ thể như: Bản đồ dự báo bão dễ tham khảo hơn; đã nhận định rõ hơn về diễn biến mưa, vùng và thời gian có gió mạnh, sóng lớn; khu vực các huyện miền núi có nguy cơ lũ quét, sạt lở đất cao; các bản tin dự báo bão, lũ được phát sớm hơn từ 30 phút đến 1 giờ so với trước đây và chuyển ngay đến các Đài KTTV khu vực, Đài KTTV tỉnh để kịp thời phục vụ địa phương; đưa thông tin dự báo KTTV lên các trang mạng của Trung tâm, các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương, địa phương và các cơ quan chỉ PCTT các cấp để góp phần nâng cao hiệu quả PCTT. Hệ thống dự báo, cảnh báo KTTV quốc gia hiện nay bao gồm hệ thống quan trắc nội địa, thu thập số liệu quan trắc và dự báo quốc tế, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống xử lý số liệu và dự báo; dự báo nghiệp vụ tại Trung tâm, 9 Đài KTTV khu vực cũng như 54 Đài KTTV các tỉnh.
GS.TS. Trần Hồng Thái, Tổng cục trưởng Tổng cục KTTV cho biết, Dự thảo Chiến lược đưa ra những mục tiêu cụ thể cho 6 nhóm vẫn đề gồm: Hiện đại hóa hệ thống quan trắc KTTV; hoạt động dự báo, cảnh báo KTTV; thông tin, truyền tin, dữ liệu và xây dựng tài nguyên số thông tin KTTV; dịch vụ KTTV; truyền thông KTTV; kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo KTTV. Cụ thể, để hiện đại hóa hệ thống quan trắc KTTV, đến năm 2030 phải phát triển đồng bộ mạng lưới trạm tự động quan trắc về KTTV, đo mưa, bức xạ, nông nghiệp, xâm nhập mặn theo hướng tăng dầy mật độ các trạm tự động lên 70 % so với số lượng hiện có, ưu tiên phát triển tại các khu vực vùng núi các địa phương Bắc Bộ, Trung Bộ; đặc biệt là tại các khu vực thường xuyên có nguy cơ xảy ra các thiên tai liên quan đến bão, nước dâng do bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn.
Trong công tác dự báo, cảnh báo KTTV đến năm 2030, phải đồng bộ và hiện đại hóa công nghệ, nâng cao chất lượng dịch vụ, thời hạn cảnh báo và dự báo; đạt chỉ tiêu 100% đối với tính kịp thời, 100% đối với tính đầy đủ của bản tin dự báo, cảnh báo KTTV. Dự báo sự hình thành ATNĐ và bão trước 1-2 ngày; quỹ đạo và cường độ ATNĐ trước 3 ngày, quỹ đạo và cường độ bão trước 5 ngày. Dự báo, cảnh báo đảm bảo độ tin cậy đối với lũ cho các hệ thống sông lớn ở Bắc Bộ lên 3-4 ngày, ở Trung Bộ lên 2-3 ngày, ở Nam Bộ lên đến 10 ngày. Cảnh báo các loại thiên tai như ngập lụt đô thị, lũ quét, sạt lở đất dự báo trước 6 giờ và đảm bảo độ tin cậy; tăng thời hạn và đảm bảo độ tin cậy trong dự báo nước dâng do bão lên đến 3 ngày và sóng biển tới 5 ngày.
Đối với chỉ tiêu công tác thông tin, truyền tin, dữ liệu và xây dựng tài nguyên số thông tin KTTV: Hoàn thiện trang thiết bị hạ tầng công nghệ thông tin cho Trung tâm Dữ liệu Data Center (DC) tại Hà Nội và đầu tư xây dựng DC mới tại TP. Hồ Chí Minh, đảm bảo hệ thống hoạt động có tính dự phòng cao. Xây dựng mạng dùng riêng cho lĩnh vực KTTV; ứng dụng công nghệ truyền dẫn thế hệ mới trong thu nhận, truyền phát thông tin KTTV. Ứng dụng CMCN 4.0 vào truyền tin, thông tin và dữ liệu KTTV. Xây dựng được cơ sở dữ liệu KTTV quốc gia; số hóa 100% kho tư liệu giấy KTTV và phát triển hoàn hiện hệ thống phần mềm nghiệp vụ dùng chung lĩnh vực KTTV.
Tổng cục KTTV sẽ hiện đại hóa mạng lưới quan trắc cho khu vực phía Bắc, vùng núi cao nơi thường xảy ra mưa, bão với cường độ lớn, lũ, lũ quét, đất và hiện chưa có trạm quan trắc tự động mang tính chất đồng bộ (Tây Bắc, Việt Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ). Các trạm quan trắc KTTV, hải văn tự động dọc ven biển, hải đảo nơi mạng lưới trạm còn thưa, vì thế số lượng trạm được đầu tư hiện đại hóa và tăng cường dự kiến khoảng 150 trạm. Bên cạnh đó, mạng lưới quan trắc KTTV tiếp tục phát triển, đan dày mạng lưới đo mưa tự động, đặc biệt cho vùng núi cao nơi thường xảy ra mưa, lũ, lũ quét, sạt lở đất theo hình thức thuê dịch vụ với số lượng dự kiến khoảng 1.000 điểm đo mưa tự động độc lập. Mạng lưới trạm KTTV trên toàn quốc được quản lý chặt chẽ, chỉ đạo xử lý các vấn đề phát sinh trên mạng lưới KTTV quốc gia. Nâng cao chất lượng phân tích, dự báo thời tiết, cảnh báo thiên tai nhất là dự báo xa. Các hiện tượng thời tiết, thủy văn cực đoan, nguy hiểm, dự báo, cảnh báo kịp thời phục vụ phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
Dự thảo Chiến lược hết sức quan trọng đối với sự phát triển của toàn Ngành nói riêng và đất nước nói chung, do đó, nên cập nhật tất cả các vấn đề mang tính thời đại phải vào trong chiến lược quốc gia này. Chiến lược phát triển ngành KTTV có các giải pháp để tăng cường năng lực QLNN về KTTV, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Đối với mạng lưới KTTV, trong Dự thảo, việc phát triển mạng lưới ở một tầm mới từ số liệu, dữ liệu KTTV với Big Data, bổ sung các công nghệ quan trắc KTTV; trong đó, đặc biệt tăng cường việc xã hội hóa, thương mại hóa, huy động sự tham gia của toàn xã hội. Đối với công tác dự báo, cảnh báo, Chiến lược xác định rõ được các loại số liệu cần bổ sung, xác định rõ mô hình dự báo cũng như việc đồng hóa dữ liệu. Đặc biệt, tăng cường nghiên cứu, bổ sung các công nghệ dự báo, cảnh báo lũ quét, sạt lở đất, từ vấn đề các trạm đo mưa, khảo sát khu vực, nguy cơ sạt lở đất cho đến việc chi tiết hóa địa chất cho các khu vực nguy cơ.

 

PHƯƠNG LINH