
Tại cuộc họp, các bên cũng thảo luận chi tiết về dự thảo kế hoạch hoạt động năm thứ nhất và năm thứ hai của 02 dự án nêu trên, phân rõ các hoạt động chính trong quá trình thực hiện dự án Bắt đầu từ Giai đoạn Khởi động (thành lập Ban quản lý dự án, Ban chỉ đạo quốc gia, tổ chức Hội thảo khởi động, xây dựng sổ tay hướng dẫn thực hiện dự án,…) đến các hoạt động chi tiết trong từng Hợp phần của Văn kiện Dự án đã được phê duyệt xuyên suốt 12 tháng của năm thứ nhất của dự án.
Tại cuộc họp, ông Wyatt Andrew – IUCN cho biết, Dự án “Tăng cường tính bền vững của tầng chứa nước xuyên biên giới Campuchia-Đồng bằng sông Cửu Long” là dự án hỗ trợ kỹ thuật hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia do Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) tài trợ thông qua Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) nhằm tăng cường tính bền vững về môi trường và an ninh nguồn nước ở hạ lưu vực sông Mê Công thông qua việc tập trung vào cải thiện quản trị và sử dụng bền vững tầng chứa nước xuyên biên giới Campuchia-Đồng bằng sông Cửu Long. Dự án được thực hiện trong 5 năm (2023-2027), được thực hiện tại các cơ quan trung ương và một số tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long và TP. Hồ Chí Minh.
Ông Wyatt Andrew – IUCN phát biểu tại cuộc họp
Kết quả chính của Dự án sẽ bao gồm 05 hợp phần, cụ thể: (1) Hợp tác đánh giá dựa trên cơ sở khoa học đối với động lực nước ngầm và các tác động lên hệ sinh thái và sinh kế; (2) Thí điểm các giải pháp cải thiện quản lý nước ngầm xuyên biên giới, với kết quả dự kiến là trình diễn thí điểm về quản lý và sử dụng nước ngầm sáng tạo để cải thiện việc bổ cập nước ngầm, giảm khai thác nước ngầm, cân bằng hệ sinh thái/sinh kế; (3) Cơ chế hợp tác xuyên biên giới với các kết quả dự kiến là thiết kế hài hòa các mạng lưới và quy trình giám sát nước ngầm; xây dựng thỏa thuận về cơ chế và thủ tục trao đổi dữ liệu nước ngầm; thiết kế cơ quan điều phối và tham vấn xuyên biên giới thường trực; (4) Chiến lược và chương trình hành động chung với các kết quả dự kiến là các nước thành lập ủy ban liên bộ đặc biệt; xây dựng một tầm nhìn dài hạn được chia sẻ (20 năm) bao gồm thỏa thuận về các mục tiêu chất lượng môi trường; chương trình hành động chiến lược (SAP) với thời hạn 05 năm phù hợp với tầm nhìn chung; (5) Tăng cường thể chế, cải thiện sự tham gia, lồng ghép giới, giám sát và điều phối với kết quả dự kiến là xây dựng năng lực có cấu trúc trong quản lý nước ngầm cho những người ra quyết định và các bên liên quan.
Cục Quản lý Tài nguyên nước phụ trách hợp phần 2 là thí điểm các giải pháp cải thiện quản lý nước ngầm xuyên biên giới, với kết quả dự kiến là trình diễn thí điểm về quản lý và sử dụng nước ngầm sáng tạo để cải thiện việc bổ cập nước ngầm, giảm khai thác nước ngầm, cân bằng hệ sinh thái/sinh kế.
Toàn cảnh cuộc họp
Dự án khu vực “Thúc đẩy an ninh nguồn nước và môi trường cho các lưu vực sông xuyên biên giới sông Mã và sông Neun/Cả và vùng ven biển liên quan (Mã/ Cả)” là dự án hỗ trợ kỹ thuật do Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên hợp quốc (FAO) hỗ trợ cho 2 nước Việt Nam và Lào bằng nguồn vốn uỷ thác của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt chủ trương cho các cơ quan của Việt Nam tham gia thực hiện. Dự án được thực hiện trong 5 năm (2023-2027) tại các tỉnh nằm trong lưu vực sông Mã và sông Cả ở Lào và Việt Nam. Trong đó, các tỉnh phía Việt Nam bao gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Điện Biên, Sơn La, và Hòa Bình, Hà Tĩnh.
Mục tiêu tổng quát của dự án là hỗ trợ Việt Nam và CHDCND Lào thực hiện công tác quản lý tài nguyên nước ngọt và duy trì sức khỏe hệ sinh thái lưu vực các sông biên giới thuộc lưu vực sông Mã, sông Neun/sông Cả và vùng ven biển thông qua các nỗ lực tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác và hành động xuyên biên giới.
Dự án có 05 hợp phần: (1) Củng cố nền tảng kiến thức chung: Báo cáo đánh giá hiện trạng các nguồn tài nguyên nước ngọt (bao gồm nước mặt và nước dưới đất) và các hệ sinh thái phụ thuộc vào chúng, trong đó có các đánh giá kỹ thuật (về lớp trầm tích, nghề cá, đa dạng sinh học và nguy cơ cháy rừng), quản trị và giới; Báo cáo phân tích so sánh các xu hướng hiện tại và các kịch bản dự kiến; Báo cáo đánh giá dòng chảy môi trường tại các địa bàn thực hiện dự án; Báo cáo phân tích chẩn đoán xuyên biên giới (TDA); Thống nhất được một vài Chỉ số hiện trạng môi trường (ESI). (2) Thúc đẩy hợp tác xuyên biên giới: Thành lập các Ủy ban Kỹ thuật chung - JTC; Tầm nhìn chung dài hạn (thời hạn 20 năm) bao gồm việc thống nhất được các chỉ tiêu về chất lượng môi trường và bình đẳng giới; Thiết kế hài hòa các mạng lưới giám sát đa mục đích và các quy định/quy trình chung về giám sát và chia sẻ dữ liệu; Thống nhất và thành lập được Ủy ban Điều phối/Tham vấn Song phương Lâm thời (IBCC). (3) Thử nghiệm các giải pháp trên thực địa: Các mô hình trình diễn thí điểm được lựa chọn trên cơ sở các kết quả và phát hiện của Hợp phần 1. (4) Thúc đẩy chuyển cam kết thành hành động: Thành lập được các Ủy ban liên bộ (IMC) theo sự vụ; Đề xuất các Chương trình hành động chiến lược (SAP) với thời hạn 5 đến 10 năm, nhất quán với tầm nhìn chung; Tổ chức hội nghị Đối tác giúp tăng cường hỗ trợ quốc tế cho việc thực hiện các kế hoạch hành động chiến lược; Các Kế hoạch hành động quốc gia (NAP) cho lưu vực sông Mã và sông Neun/Cả cụ thể hoá các ưu tiên khu vực thành các hành động quốc gia (được triển khai sau khi SAP được phê duyệt. (5) Tăng cường thể chế và nâng cao nhận thức: Công tác đào tạo, tập huấn được duy trì thường xuyên/dài hạn cho đội ngũ cán bộ quản lý tài nguyên đất đai/tài nguyên nước quốc gia về các nội dung trính trong quản lý tài nguyên nước xuyên biên giới, phân tích và giám sát dữ liệu, bao gồm các vấn đề về giới; Các sự kiện nâng cao nhận thức có sự tham gia của đông đảo các bên liên quan ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu; Phổ biến các thành tựu chính của dự án; Cộng tác với Mạng lưới tài nguyên và trao đổi kiến thức về nước quốc tế của GEF (IW- LEARN), tham gia đầy đủ các hoạt động IW-LEARN, bao gồm các Hội thảo về nước quốc tế (IWC), xây dựng trang web của dự án theo các tiêu chuẩn của IW-LEARN, đồng thời xây dựng các tài liệu chia sẻ bài học kinh nghiệm.
Phát biểu tại cuộc họp, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà cho rằng, 02 dự án đều thuộc dự án xuyên biên giới, nhưng tác động chính lại ảnh hưởng tới quốc gia hạ nguồn là Việt Nam. Vì vậy, cần phải có sự kết nối giữa những hợp phần với nhau, đặc biệt là các nội dung thực hiện của các quốc gia thuộc phạm vi dự án cần có ý kiến của các cơ quan liên quan của Việt Nam thông qua hoặc phản hồi để phía Việt Nam có thể tham gia tối đa, đạt được sự đồng thuận khi triển khai, hoàn thiện các hoạt động của dự án.
Phát biểu kết luận tại buổi họp, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh đánh giá cao kế hoạch triển khai chi tiết các dự án, đồng thời chỉ đạo các đơn vị liên quan của Cục tích cực phối hợp, trao đổi thông tin để các dự án sớm được triển khai. Bên cạnh đó, Cục trưởng đã đề xuất Tổ chức FAO, IUCN tăng cường tham gia hỗ trợ xây dựng chính sách pháp luật về tài nguyên nước tại Việt Nam, trước mắt là tham gia hỗ trợ góp ý Chương 7: Hợp tác quốc tế tài nguyên nước trong Luật tài nguyên nước (sửa đổi).
Thanh Tâm