
Quan niệm về vốn tự nhiên
Trước hết, cần khẳng định khái niệm “vốn tự nhiên - natural capital” không phải vấn đề mới trong nghiên cứu, quản lý ở nước ta, thuật ngữ này đã được các nhà khoa học trong nước sử dụng từ lâu. Tuy nhiên, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau khi sử dụng khái niệm quan trọng này cho từng lĩnh vực chuyên sâu, phụ thuộc vào mục tiêu và quan niệm của mỗi tác giả nghiên cứu.
Trên thế giới: Các tác giả Peter Kareiva và nnk [2] khi nghiên cứu lý thuyết về vốn tự nhiên phục vụ thực hành lập bản đồ dịch vụ hệ sinh thái đã tiếp cận vốn tự nhiên tập trung vào các loại hình TNTN chính là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản và ĐDSH. Francisco [3] quan niệm “vốn tự nhiên” chính là “chiếc ghế - the chair” quan trọng mà việc phát triển nó là điều kiện để đảm bảo cho phát triển KT-XH bền vững. Trong nhiều nghiên cứu khác, vốn tự nhiên đã và đang là vấn đề được tiếp cận như là một bộ phận cấu thành quan trọng của “quản lý chuỗi cung ứng xanh”.
Ở nước ta: Có một số tác giả bước đầu đã tiếp cận đưa ra định nghĩa về vốn tự nhiên trong các nghiên cứu gần đây. Đặng Huy Huỳnh [4] quan niệm nguồn vốn tự nhiên gồm 2 nhóm tài nguyên quan trọng là các nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo, đã lấy đi từ thiên nhiên là mất và nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo nhưng không phải là vô hạn, các dịch vụ HST. Các tác giả Nguyễn Đình Hoè, Vũ Văn Hiếu [5] coi tài nguyên là phần “vốn” của hệ thống có thể tiếp cận được, có thể sử dụng được hoặc có thể mang ra khỏi hệ thống như là một dạng đầu ra. Định nghĩa này đã cho thấy, giúp chúng ta có thể nhìn nhận thực chất vốn tự nhiên chính là tài nguyên, khi ra khỏi hệ thống tự nhiên đóng góp cho nền kinh tế với vai trò là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, phục vụ cho nhu cầu của con người và xã hội.
Thực trạng và những thách thức
Vùng đồng bằng sông Hồng là một trong những khu vực có tốc độ phát triển KT-XH mạnh mẽ nhất của cả nước. Với hai thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội, Hải Phòng và chín đơn vị hành chính cấp tỉnh là Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc. Các nguồn tài nguyên như đất, nước, khoáng sản, rừng … cả sinh vật và phi sinh vật phong phú, đa dạng là cơ sở quan trọng, động lực cho phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội khu vực. Với đường bờ biển dài bị chia cắt bởi nhiều cửa sông lớn, có vị thế địa chính trị quan trọng, đồng bằng sông Hồng có nhiều thế mạnh về phát triển kinh tế biển, đặc biệt là nuôi trồng thuỷ hải sản, diêm nghiệp và nhiều lĩnh vực trọng yếu khác đang mang lại những nguồn lợi không nhỏ, bảo đảm cho cuộc sống của người dân trong vùng.
Một số khó khăn, thách thức trong quản lý vốn tự nhiên vùng:
Về công nghệ và tài chính: Việc sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn vốn tự nhiên nói chung và ở vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng, đòi hỏi các công nghệ tiên tiến, đáp ứng các yêu cầu về chất lượng sản phẩm đầu ra được thị trường chấp nhận. Tuy nhiên, quá trình sản xuất phải thân thiện môi trường, hướng đến nền kinh tế tuần hoàn, tiết kiệm năng lượng và nguyên liệu.
Do đó, nguồn tài chính đầu tư chỉ mang lại hiệu quả sau một quãng thời gian lâu dài, đòi hỏi quy hoạch và kế hoạch cho các hành động phát triển phải gắn liền với các hình thức khuyến khích, hỗ trợ. Trong quá trình hoạch định chính sách, việc tạo môi trường sản xuất kinh doanh thông thoáng, tạo động lực cho các tổ chức/ cá nhân sẵn sang đầu tư, giảm thiểu rủi ro, góp phần chung tay cùng trung ương và các địa phương phát triển KT-XH có những chuyển biến rõ rệt, mang tính đột phá.
Về đổi mới cơ chế, chính sách, minh bạch trong quản trị vốn tự nhiên: Hệ thống cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN đang diễn ra tạo ra những áp lực rất lớn với quản lý TN&MT. Khung chính sách, pháp luật cần tiếp tục được đổi mới, hoàn thiện.
Bên cạnh đó, hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định kỹ thuật còn thiếu, nhiều lĩnh vực chưa theo kịp xu thế đổi mới của công nghệ để có thể bảo vệ và phát triển bền vững các nguồn vốn tự nhiên. Quản trị TNTN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hòi yêu cầu rất cao về tính minh bạch, đóng góp và trách nhiệm xã hội. Với nền kinh tế xuất phát từ sản xuất nông nghiệp, phương thức quản lý đang trong giai đoạn chuyển đổi, đổi mới thì đây là một trong những khó khăn, thách thức không nhỏ với các địa phương trong vùng.
Giải pháp và định hướng
Một số nhân tố chính tác động đến PTBV vốn tự nhiên vùng ĐBSH
Trước các nguy cơ, thách thức to lớn về môi trường sinh thái và BĐKH, trung ương và chính quyền các địa phương trong vùng đều rất quan tâm đến nội dung liên quan đến khai thác, sử dụng bền vững các nguồn vốn tự nhiên trong quá trình hoạch định chính sách phát triển KT-XH và lập quy hoạch phát triển KT-XH. Tuy nhiên, trong giai đoạn sắp tới, trước các nguy cơ về BĐKH, suy thoái và cạn kiệt các nguồn TNTN, vấn đề lồng ghép các yêu cầu về bảo vệ và phát triển các nguồn vốn tự nhiên tại các địa phương trong vùng cần được quan tâm hơn nữa.
Một số vấn đề trọng tâm chính cần tập trung đánh giá, làm rõ hơn nhằm tăng cường phát triển vốn tự nhiên trong quy hoạch phát triển KT-XH vùng Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2021 - 2030 là:
Một là, cần tăng cường nhận thức về sử dụng vốn tự nhiên trong quy hoạch phát triển KT-XH vùng đồng bằng sông Hồng. Cần làm rõ các loại hình tài nguyên có thể sử dụng trong giới hạn cho phép, trong giới hạn chịu tải của môi trường, các loại tài nguyên mang tính “hệ thống”, giữ vai trò là “bộ khung xương” cần bảo tồn, xác định các khu vực cấm khai thác, bảo vệ nghiêm ngặt cho các thế hệ tương lai khai thác và sử dụng.
Hai là, xem xét thực hiện lượng giá tài nguyên và quy hoạch sử dụng vốn tự nhiên gắn với quy hoạch phát triển KT-XH vùng. Kết quả lượng giá sẽ là căn cứ cho các hành động phát triển, không “đánh đổi vốn tự nhiên” cho lợi ích kinh tế trước mắt, phát triển phải bảo đảm không huỷ hoại môi trường, vượt quá giới hạn ngưỡng sinh thái.
Ba là, việc duy trì các dịch vụ HST phải được coi là một nhân tố quan trọng trong quá trình ra quyết định. Môi trường cần được bảo vệ, bảo đảm thực hiện đầy đủ các chức năng cơ bản cung cấp không gian sống, tài nguyên, điều tiết và bảo tồn thông tin, đa đạng địa học, ĐDSH bền vững.
Bốn là, hoàn thiện cơ sở pháp lý, xây dựng chính sách và những quy định về sử dụng hợp lý vốn tự nhiên trong vùng. Trong đó, lưu ý các văn bản tạo hành lang pháp lý cho vấn đề về liên kết trong và ngoài vùng, cơ chế phối hợp cho chia sẻ lợi ích từ các nguồn tài nguyên, quản lý các lưu vực sông liên tỉnh, vùng ven biển trong bối cảnh BĐKH.
Năm là, bảo tồn, khôi phục và giảm thiểu tác động tiêu cực tới vốn tự nhiên trong quá trình sử dụng TNMT, kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn tự nhiên hiệu quả. Trong đó, lưu ý phòng chống các sự cố môi trường, hạn chế chất thải nhựa, chi trả dịch vụ sinh thái và kiểm soát việc sử dụng lãng phí các nguồn vốn tự nhiên trong vùng.
Tài liệu tham khảo
1. Kwatt, Sinh thái học và việc quản lý nguồn lợi thiên nhiên, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật (1976), 359 trang.
2. Peter Kareiva, Heather Tallis, Taylore H. Rickétt, Gretchen C. Daily, Stephen Polasky (2011), Natural capital: Theory and Practice of Mapping Ecosystem service, Oxford University Press, USA.
3. Francesco di Castri (1995), “The chair of Sustainable Development”, Nature and resource, France.
4. Đặng Huy Huỳnh, Bảo tồn và sử dụng hợp lý vốn tự nhiên trong nền kinh tế xanh ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Tài nguyên thiên nhiên và Tăng trưởng Xanh”, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
5. Nguyễn Đình Hoè (2007), Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu môi trường và phát triển, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
NGUYỄN VĂN HUY
Ban Tổ chức Trung ương