Quản lý tài nguyên nước trước thách thức biến đổi khí hậu: Góc nhìn từ Hậu Giang và Bà Rịa - Vũng Tàu

Thứ năm, 17/10/2024, 05:46 (GMT+7)
logo Tài nguyên nước không chỉ là nguồn sống thiết yếu mà còn là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững. Trước áp lực từ biến đổi khí hậu và nhu cầu sử dụng nước gia tăng, Hậu Giang và Bà Rịa - Vũng Tàu đã triển khai những giải pháp quản lý tài nguyên nước hiệu quả. Phóng viên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường đã có buổi phỏng vấn với ông La Trọng Kỳ - Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) tỉnh Hậu Giang, và ông Phan Văn Mạnh - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, để tìm hiểu thêm về những thành tựu và định hướng tương lai của hai địa phương.

Quản lý tài nguyên nước trước thách thức biến đổi khí hậu: Góc nhìn từ Hậu Giang và Bà Rịa - Vũng Tàu

Ông La Trọng Kỳ - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Hậu Giang

PV: Được xem là địa phương có nguồn nước mặt dồi dào nhờ hệ thống sông, kênh, rạch chằng chịt và địa hình thấp thuận lợi cho việc tích trữ nước ngọt, thưa ông La Trọng Kỳ, ông đánh giá thế nào về thực trạng tài nguyên nước và những thách thức lớn mà địa phương đang đối mặt?

Ông La Trọng Kỳ: Hậu Giang là tỉnh có địa hình trũng thấp, với hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt dài khoảng 2.300 km, mật độ sông rạch 1,5 - 2 km/km² và diện tích mặt nước lên đến 11.000 ha. Điều này tạo điều kiện tích trữ nước lớn, nhưng cũng mang đến nhiều thách thức. Biến đổi khí hậu (BĐKH) và việc gia tăng khai thác nước ở thượng nguồn sông Mê Kông khiến nguồn nước vào tỉnh ngày càng suy giảm, dẫn đến nguy cơ thiếu nước và ô nhiễm nguồn nước, nhất là ở khu vực giáp nước giữa triều biển Đông và triều biển Tây.

Còn vào mùa khô, Hậu Giang chịu ảnh hưởng mặn xâm nhập từ triều biển Tây. Các năm 2015-2016 và 2019-2020, xâm nhập mặn sâu vào tỉnh đã gây thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng và thiệt hại lớn trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, với việc xây dựng tuyến đê bao Vị Thanh - Long Mỹ và hệ thống thủy lợi Nam kênh Xà No, cùng 122 cống ngăn mặn, tình trạng này đã được kiểm soát đáng kể trong những năm gần đây.

PV: Vậy tỉnh Hậu Giang đã triển khai những giải pháp cụ thể nào để quản lý và bảo vệ tài nguyên nước, thưa ông?

Ông La Trọng Kỳ: Tỉnh Hậu Giang đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả trong việc quản lý và bảo vệ tài nguyên nước. Một trong những giải pháp nổi bật là công tác điều tra cơ bản tài nguyên nước. Chúng tôi đã xây dựng kế hoạch điều tra, lập danh mục các nguồn nước cần được bảo vệ, khoanh vùng các khu vực có nguy cơ sạt lở và phê duyệt các vùng hạn chế khai thác nước. Bên cạnh đó, các khu vực phải đăng ký khai thác nước dưới đất cũng đã được xác định và triển khai.

Một giải pháp quan trọng khác là quan trắc môi trường nước. Tỉnh duy trì hoạt động của 5 trạm quan trắc tự động và 45 điểm quan trắc cố định trên các sông, kênh chính. Đồng thời, chúng tôi tiến hành điều tra các đặc trưng tài nguyên nước mặt, kiểm kê nguồn nước và xác định dòng chảy tối thiểu nhằm bảo vệ bền vững tài nguyên nước.

Ngoài ra, tỉnh còn đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng để hỗ trợ công tác bảo vệ tài nguyên nước. Các công trình lớn như tuyến đê bao ngăn mặn, hồ tích trữ nước ngọt, 13 giếng nước ngầm dự phòng và hệ thống giám sát khai thác nước trực tuyến đã được xây dựng. Đặc biệt, chúng tôi đã triển khai thí điểm công trình bổ cập nhân tạo nước dưới đất tại Nhà máy nước Vị Thanh, với mục tiêu nâng cao hiệu quả bảo vệ tài nguyên nước dưới đất.

Cuối cùng, trong công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, tỉnh Hậu Giang đã điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chuyển từ mô hình lúa gạo - thủy sản - cây trái sang cây trái - thủy sản - lúa gạo nhằm tiết kiệm nguồn nước ngọt. Đồng thời, tỉnh hỗ trợ kỹ thuật trồng lúa kết hợp nuôi tôm tại các khu vực nước lợ, mặn, với diện tích thực hiện lên đến khoảng 156 ha.

Quản lý tài nguyên nước trước thách thức biến đổi khí hậu: Góc nhìn từ Hậu Giang và Bà Rịa - Vũng Tàu

Ông Phan Văn Mạnh - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

PV: Bà Rịa - Vũng Tàu có nguồn nước dồi dào, nhưng biến động nhanh và phức tạp do địa hình dốc và ven biển, cùng với tác động của biến đổi khí hậu khiến mực nước các hồ chứa cạn kiệt. Vậy thưa ông Phan Văn Mạnh, tỉnh đã thực hiện những biện pháp nào để ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên nước?

Ông Phan Văn Mạnh: Bà Rịa - Vũng Tàu là tỉnh ven biển, chịu tác động lớn từ biến đổi khí hậu như xâm nhập mặn, mưa lớn, và nước biển dâng. Để đối phó với những thách thức này, tỉnh đã ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, trong đó đề ra nhiều giải pháp quản lý tài nguyên nước.

Một trong những giải pháp quan trọng là quy hoạch và bảo vệ tài nguyên nước. Chúng tôi đã lập quy hoạch tài nguyên nước, xác định hành lang bảo vệ hồ chứa nước sinh hoạt và hạn chế các dự án đầu tư tại vùng thượng nguồn hồ chứa. Điều này giúp ngăn chặn các hoạt động có thể gây ô nhiễm nguồn nước.

Về quản lý nguồn nước dưới đất, tỉnh đã thiết lập mạng quan trắc nước dưới đất để phát hiện kịp thời tình trạng cạn kiệt và ô nhiễm. Đồng thời, chúng tôi thực hiện trám lấp các giếng khoan hư hỏng và ban hành danh mục các vùng hạn chế khai thác nước ngầm.

Bên cạnh đó, tỉnh cũng chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng. Hệ thống kênh chính, kênh cấp I, và đê ngăn mặn đã được hoàn thiện, đồng thời các công trình cấp nước mới và nâng cấp mạng lưới đường ống cấp nước đến các khu vực khan hiếm nước, đặc biệt là các xã đảo, cũng đã được triển khai.

PV: Ông có thể chia sẻ thêm về các hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng và sự tham gia của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên nước tại Bà Rịa - Vũng Tàu?

Ông Phan Văn Mạnh: Chúng tôi hiểu rằng để quản lý và bảo vệ tài nguyên nước một cách hiệu quả, sự đồng thuận và tham gia của cộng đồng là điều vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục về tài nguyên nước thông qua nhiều hình thức khác nhau.

Một trong những hình thức tuyên truyền quan trọng là tổ chức các hội thảo và lớp tập huấn. Hàng năm, tỉnh tổ chức các buổi hội thảo cho người dân và doanh nghiệp nhằm nâng cao nhận thức về việc sử dụng nước tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước. Đồng thời, các lớp tập huấn kỹ thuật cũng được triển khai, đặc biệt là dành cho các hộ nông dân, giúp họ áp dụng các phương pháp tiết kiệm nước trong sản xuất.

Không những thế, tỉnh còn thực hiện các chiến dịch truyền thông rộng rãi qua nhiều phương tiện như truyền hình, đài phát thanh và mạng xã hội. Nội dung của các chiến dịch rất đa dạng, bao gồm cách tiết kiệm nước, bảo vệ nước ngầm và những nguy cơ từ xâm nhập mặn, nhằm nâng cao ý thức cộng đồng về tầm quan trọng của tài nguyên nước.

Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng thực hiện các sáng kiến bảo vệ nguồn nước. Các nhóm cộng đồng địa phương được khuyến khích đề xuất các giải pháp như xử lý nước thải tại chỗ, thu gom nước mưa, và xây dựng các mô hình sinh kế phù hợp với điều kiện nguồn nước ở từng khu vực.

Ngoài ra, tỉnh phối hợp với các trường học để tích hợp nội dung bảo vệ tài nguyên nước vào chương trình giáo dục. Các cuộc thi về môi trường và tài nguyên nước được tổ chức cho học sinh, giúp nâng cao nhận thức và ý thức bảo vệ nguồn nước từ thế hệ trẻ.

PV: Thưa ông Phan Văn Mạnh, trong thời gian tới, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có kế hoạch hoặc định hướng gì để tăng cường hiệu quả quản lý tài nguyên nước?

Ông Phan Văn Mạnh: Trong giai đoạn 2025-2035, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ tiếp tục triển khai các chiến lược dài hạn nhằm bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước. Một trong những ưu tiên hàng đầu là hoàn thiện hệ thống hạ tầng thủy lợi và cấp nước, đặc biệt ở những khu vực khó khăn như các xã đảo, vùng ven biển, và các khu vực bị ảnh hưởng mạnh bởi xâm nhập mặn. Chúng tôi cũng sẽ nghiên cứu khả năng xây dựng thêm các hồ chứa nước ngọt quy mô lớn để đảm bảo nguồn cung cấp nước ổn định, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất.

Ngoài ra, tỉnh sẽ tập trung phát triển công nghệ xử lý nước tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Đặc biệt, chúng tôi khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và sử dụng nước, giúp tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Một nhiệm vụ quan trọng khác là xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên nước, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu tích hợp và cập nhật thường xuyên. Hệ thống này sẽ giúp quản lý tài nguyên nước theo thời gian thực, từ đó kịp thời phát hiện và xử lý các vấn đề về ô nhiễm hoặc cạn kiệt nguồn nước.

Cuối cùng, tỉnh sẽ tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực để tiếp cận nguồn vốn và công nghệ tiên tiến. Đồng thời, chúng tôi sẽ học hỏi các mô hình quản lý tài nguyên nước bền vững từ các quốc gia phát triển, nhằm áp dụng những giải pháp hiệu quả nhất cho Bà Rịa - Vũng Tàu.

PV: Xin cảm ơn hai ông đã dành thời gian chia sẻ những thông tin hữu ích và chi tiết về thực trạng cũng như các giải pháp quản lý tài nguyên nước tại địa phương mình. Những nỗ lực này chắc chắn sẽ góp phần vào sự phát triển bền vững của Hậu Giang và Bà Rịa - Vũng Tàu trong tương lai.