
Một khu vực hạ du sông Thu Bồn
Thách thức an ninh nguồn nước
Vu Gia - Thu Bồn (VG-TB) là 01 trong 10 LVS lớn nhất Việt Nam, có lượng mưa trung bình lưu vực lớn nhất Việt Nam với tổng lượng mưa trung bình nhiều năm là 2.700 mm. Thế nhưng, thực tế đã chứng minh, TNN trên lưu vực không dồi dào như dự báo do luôn phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng gây mất an ninh nguồn nước.
Phân bố dòng chảy không đều giữa mùa mưa - mùa khô và dưới tác động gia tăng của BĐKH làm cho mưa được dự báo tăng trong mùa mưa, giảm trong mùa khô. Đi kèm với đó là quá trình mặn hóa, xâm thực bờ biển, ngập lụt và sạt, lở bờ sông ngày càng diễn biến phức tạp hơn trước. Ngoài ra, biến đổi lòng dẫn sông, đặc biệt là, hạ thấp mực nước trên sông chính là thách thức lớn đối với an ninh nguồn nước trên LVS VG-TB. Hạ thấp lòng dẫn khiến không đủ cao trình mực nước cho các công trình lấy nước ven sông, từ đó, làm giảm năng lực lấy nước và cấp nước. Ngoài ra, việc vận hành của các công trình hồ chứa thủy điện, thủy lợi trên lưu vực nếu không hợp lý sẽ làm suy giảm, cạn kiệt dòng chảy trên LVS, nhất là ở hạ lưu các công trình, đặc biệt là vào mùa khô những năm hạn hán, thiếu nước. Đồng thời, gia tăng làm trầm trọng hơn tình trạng ngập lụt ở vùng hạ du do đặc điểm tự nhiên là vùng đồng bằng địa hình trũng thấp.
Bên cạnh đó, suy thoái, ô nhiễm môi trường nước trên LVS cũng là một trong những thách thức lớn mà hai địa phương xác định phải ứng phó trong thời gian tới. Ô nhiễm nước xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó, nguyên nhân chính là do phải tiếp nhận chất thải từ các nguồn xả thải vào sông, suối. Những thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng, các hình thế thiên tai cực đoan,… đã gây ra tác động lớn đến TNN. Lũ quét, sạt lở đất thường xuyên tại các khu vực miền núi, có xu thế tăng rõ rệt, với tổng số trận lũ quét tăng lên, sạt lở đất có quy mô và phạm vi ngày càng lớn với đặc tính xảy ra nhanh và nguy hiểm ngoài việc gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, còn làm thay đổi hướng, chế độ dòng chảy, chất lượng nguồn nước.
Dưới tác động của BĐKH, nắng nóng sẽ xảy ra với tần xuất và cường độ ngày càng gay gắt hơn. Hạn hán và xâm nhập mặn sẽ trở nên khắc nghiệt hơn. Nhiều giá trị kỷ lục mới về nhiệt độ đã được thiết lập. Những năm gần đây, hiện tượng ENSO ngày càng có tác động nghiêm trọng, các đợt El Nino đã gây ra hạn hán trên phạm vi rộng, tình trạng cạn kiệt nguồn nước trên sông ngày càng phổ biến.
Tài nguyên nước của LVS VG-TB hiện tại và trong tương lai sẽ phụ thuộc vào việc giải quyết một loạt những vấn đề quan trọng, mang tính lưu vực, liên quan đến tình trạng căng thẳng về nước, suy giảm nhanh chất lượng nước, và những rủi ro thiên tai liên quan đến nước. Mức độ gia tăng nhanh chóng về nhu cầu sử dụng nước được dự báo sẽ gây ra căng thẳng về nguồn TNN vào mùa khô. Thêm vào đó, sự cạnh tranh về nhu cầu sử dụng nước ở nhiều ngành khác nhau ngày càng tăng, trong bối cảnh chất lượng nước ngày một kém đi. Bên cạnh đó, tác động BĐKH làm cho các thách thức về nước càng trầm trọng hơn và càng đặt ra nhu cầu quản lý TNN một cách hiệu quả hơn.
Tăng cường phối hợp quản lý lưu vực sông
Ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý TNN cho biết, trong thời gian vừa qua đã có nhiều tổ chức LVS đã được thành lập thuộc hệ thống quản lý chuyên ngành khác nhau. Tuy nhiên, việc thành lập và triển khai các tổ chức LVS này hiện nay vừa “thừa” vừa “thiếu”, nếu phản ánh được khía cạnh “quản lý theo LVS” thì lại thiếu tiếp cận “quản lý tổng hợp” hoặc ngược lại, dẫn đến sự chồng chéo trong công tác quản lý TNN trên LVS. Luật TNN năm 2023 đã quy định rõ các hoạt động cần phải được điều phối, giám sát trên LVS đồng thời nêu rõ, nhiệm vụ của các tổ chức LVS tại Điều 81 theo đó, Bộ TN&MT thống nhất chỉ đạo việc phối hợp hoạt động của tổ chức LVS, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc điều hòa, phân phối TNN, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN, phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra trên các LVS. Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật TNN đã nêu rõ, tùy thuộc vào tính chất đặc thù của LVS, trên cơ sở đề xuất của Ủy ban nhân dân các tỉnh trong LVS thì Chủ tịch Ủy ban LVS có thể quyết định việc thành lập Tiểu ban LVS thuộc Ủy ban LVS thực thi nhiệm vụ về điều phối, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN, BVMT LVS, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do các hoạt động khai thác sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước gây ra trên các LVS liên tỉnh.
Định hướng chung cho lộ trình thành lập thí điểm tổ chức LVS VG-TB là xây dựng cơ sở đảm bảo hài hòa các mục tiêu sử dụng tổng hợp nguồn nước, ngoài đảm bảo an ninh năng lượng, hiệu quả phát điện còn phải đảm bảo nhu cầu sử dụng nước ở hạ du và hạn chế các tác động không mong muốn gây ra sự phân bổ dòng trầm tích không đều từ thượng lưu đến hạ du, làm giảm khối lượng vận chuyển trầm tích cho vùng cửa sông và các đường bờ lân cận, giảm nguồn cung cấp cát cho bờ biển.
Ông Lê Trí Thanh, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho biết, ngoài việc tiếp tục duy trì thể chế liên tỉnh - thành phố để hợp tác, điều phối các hoạt động liên quan tới quản lý tổng hợp TNN, BVMT và ứng phó với BĐKH trên LVS VG-TB và vùng bờ Quảng Nam - Đà Nẵng, hai địa phương cần cùng nhau nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ để đề xuất các giải pháp quản lý tổng TNN, BVMT và ứng phó với BĐKH như: Giảm thiểu tác động của các hoạt động phát triển KT-XH trên lưu vực đến TNN trong bối cảnh BĐKH; vận hành các công trình điều tiết, sử dụng nước quy mô lớn hợp lý, hài hòa, đa mục tiêu, chú trọng các công trình thủy điện trên LVS VG-TB.
Trước đây, TNN được quản lý theo hướng tiếp cận đơn ngành, nghĩa là nước được quản lý theo từng ngành dọc, theo các đơn vị sử dụng nước riêng lẻ và không có sự kết nối. Luật TNN năm 1998 và Luật TNN năm 2012 được xem như là một bước tiến về hoàn thiện thể chế và pháp lý cho quản lý tổng hợp TNN theo LVS ở Việt Nam. Luật đã thiết lập nền móng cho tổ chức LVS với chức năng điều phối, giám sát các hoạt động của bộ, ngành, địa phương liên quan.
Trong những năm qua, nhiều tổ chức LVS đã được thành lập thuộc hệ thống quản lý chuyên ngành khác nhau giữa các bộ, ngành khác nhau như: Ngành Nông nghiệp, gồm 08 Ban quản lý quy hoạch LVS hoặc Hội đồng LVS trực thuộc Bộ NN&PTNT được thành lập theo quy định của Nghị định hướng dẫn thi hành Luật TNN năm 1998, về bản chất đây là các tổ chức quản lý quy hoạch LVS, không phải là tổ chức điều phối, giám sát; ngành môi trường cũng thành lập 03 Ủy ban BVMT LVS trực thuộc Bộ TN&MT do Thủ tướng Chính phủ thành lập theo quy định của các Đề án BVMT LVS. Đây là các tổ chức chỉ đạo, điều phối liên ngành, liên vùng để thống nhất thực hiện các đề án BVMT các LVS tương ứng. Tuy nhiên, việc thực thi của các tổ chức này trên thực địa còn nhiều hạn chế, tính hiệu quả không cao.
Đứng trước yêu cầu cấp thiết của thực tế, tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng đã ký kết thỏa thuận và thành lập một tổ chức LVS thử nghiệm với tên gọi “Ban điều phối LVS VG-TB và vùng bờ Quảng Nam - Đà Nẵng” để tăng cường phối hợp giữa các ban, ngành của hai địa phương và các bên liên quan trong việc quản lý tổng hợp LVS. Có thể thấy, VG-TB là lưu vực được xem và có thể là hình mẫu để các địa phương trên các LVS thực hiện, đặc biệt là, sau khi Luật TNN số 28/2023/QH15 được Quốc hội ban hành.
Lưu vực sông VGTB là một LVS hết sức đặc biệt, trong đó, các mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước cơ bản đã được nhận diện nhưng để giải quyết các mâu thuẫn lại là bài toán hết sức phức tạp. Như vậy, bài toán đặt ra cần có một tổ chức LVS là hết sức cấp thiết, một tổ chức mà có quyền hạn, công cụ kỹ thuật, kinh phí hoạt động và sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm trong điều hòa phân bổ nguồn nước trên lưu vực, tổ chức triển khai quy hoạch TNN.
LÊ CHI
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 6 năm 2024