
Ảnh minh họa.
Nguy cơ suy giảm nguồn nước
Quảng Bình là tỉnh có nguồn TNN dồi dào, phong phú bao gồm cả nguồn nước mặt và nước ngầm. Đối với nguồn nước mặt, tỉnh có 5 hệ thống sông lớn với tổng chiều dài 375 km, tổng diện tích lưu vực 7.778 km2. Các hệ thống sông này đều là sông nội địa được bắt nguồn từ vùng rừng núi cao thuộc dãy Trường Sơn và đổ ra Biển Đông.
Ở hạ du mỗi sông đều có các cánh đồng bằng phẳng được tạo ra từ phù sa và nằm gần biển. Đặc điểm địa hình đặc trưng với lưu vực nhỏ khiến nước lũ lên xuống nhanh, gây nguy hiểm và thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp, người và của. Mùa cạn kéo dài nhưng tổng lượng dòng chảy lại rất nhỏ, không đáng kể; lượng nước trên các sông thường bị thiếu nên hạn hán xảy ra, gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, tỉnh còn có 140 hồ chứa tự nhiên và nhân tạo, 96 đập dâng lớn nhỏ với tổng dung tích 550 triệu m3; trong đó có 35 hồ có dung tích > 1 triệu m3 có nhiệm vụ chính cấp tưới cho trên 40.000 ha đất sản xuất nông nghiệp và cấp nước phục vụ sinh hoạt.
Đối với nguồn nước ngầm, theo báo cáo Quy hoạch thăm dò, khai thác sử dụng TNN tỉnh Quảng Bình đến năm 2020, trữ lượng tiềm năng nước dưới đất của tỉnh khoảng 516.000 m3/ngày đêm. Đây được xem là nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú nhưng không phải là vô tận bởi nguồn nước ngầm ở tỉnh phân bố không đều, mức độ nông sâu thay đổi phụ thuộc vào địa hình và lượng mưa trong năm. Vùng đồng bằng ven biển thường có mực nước ngầm nông và dồi dào trong khi vùng trung du miền núi có mực nước ngầm sâu và cạn kiệt vào mùa khô.
Trong quá trình khai thác, sử dụng nước mặt, phần lớn đặc điểm diện tích của Quảng Bình là vùng núi cao, sông suối ngắn, độ dốc lớn, lưu lượng dòng chảy rất biến động, cư dân nhiều vùng là người dân tộc có tập quán sinh hoạt ở vùng núi cao nên chủ yếu khai thác nước mặt trên các nhánh suối, nguồn lộ nước thông qua 2 dạng công trình chủ yếu: Hồ chứa, đập dâng; trạm bơm. Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh hiện có 150 hồ chứa, 95 đập dâng, trong đó hầu hết khai thác nước cho sản xuất nông nghiệp, một số hồ chứa có mục đích cấp nước cho sinh hoạt (hồ Phú Vinh, Sông Thai, Thác Chuối). Các công trình đập dâng có đặc điểm là chặn ngang dòng sông, suối phục vụ cho việc lấy nước tưới tiêu với diện tích từ vài ha đến hơn chục ha cho cả hai vụ. Toàn tỉnh có 38 trạm bơm, trong đó khai thác nước cho sản xuất nông nghiệp có 26 công trình, 1 công trình cấp nước công nghiệp và 11 công trình cấp nước sạch sinh hoạt cho người dân.
Đối với hoạt động nguồn nước khai thác, phần lớn các công trình đều nằm trên các khe suối, dòng nhánh của dòng chính. Theo thống kê, trong số 283 công trình khai thác nước mặt, có 21 công trình khai thác trên dòng chính, cụ thể: Trên dòng chính sông Rào Trổ (huyện Tuyên Hóa) có 1 công trình khai thác nước mặt phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt; trên dòng chính sông Gianh có 1 công trình khai thác nước mặt phục vụ nước sinh hoạt, sản xuất trong khu vực thị trấn Đông Lê và vùng lân cận thuộc huyện Tuyên Hóa; trên sông Kiến Giang có 15 công trình khai thác nước mặt phục vụ nước sinh hoạt, nước sản xuất; trên dòng chính sông Dinh (huyện Bố Trạch) có 3 công trình khai thác nước mặt phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt; trên dòng chính Sông Nan (huyện Minh Hóa) có 1 công trình khai thác nước mặt.
Bên cạnh những thuận lợi đến nay, trên địa bàn hiện chưa lập quy hoạch phân bổ, bảo vệ TNN mặt nước dưới đất nên chưa đảm bảo thực hiện theo quy định của Luật TNN về quy hoạch TNN; chưa xây dựng được mạng lưới quan trắc giám sát TNN, trong khi nguồn nước sạch cung cấp cho sinh hoạt của người dân chủ yếu là nguồn nước dưới đất. Cùng với đó, hoạt động quản lý, kiểm soát ô nhiễm nước mới tập trung ở khu vực đô thị và đoạn sông xung quanh thành phố và khu công nghiệp; nhiều làng nghề, vùng nông thôn xả nước thải vào nguồn nước chưa qua xử lý hoặc xử lý không đạt quy chuẩn môi trường đã xả nước thải vào nguồn nước. Việc phối hợp giữa giữa các cấp, ngành chưa thực sự chặt chẽ nên công tác quản lý hoạt động TNN nói chung và khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước, hành nghề khoan khai thác nước gặp những khó khăn nhất định. Việc nhận thức Luật TNN và văn bản QPPL TNN trong nhân dân và một số tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước, hành nghề khoan nước còn hạn chế.
Đồng bộ các giải pháp
Để bảo vệ nguồn TNN, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững, UBND tỉnh đã yêu cầu Sở TN&MT tập trung giải quyết các vấn đề về bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt, bảo vệ các hồ, đập thủy lợi trên địa bàn.
Trên cơ sở chỉ đạo của tỉnh, Sở đã chủ động rà soát, thống kê toàn bộ hồ, đập hiện có trên địa bàn cũng như nhu cầu sử dụng nước theo thứ tự ưu tiên; hiện trạng môi trường và quản lý, sử dụng đất quanh hồ chứa. Sở TN&MT cũng đã tham mưu UBND tỉnh lập quy hoạch, cắm mốc hành lang bảo vệ chất lượng nguồn nước các hồ, đập thủy lợi và cấp nước sinh hoạt. Theo đó, sẽ có tổng cộng 11 sông, suối và 43 hồ chứa nằm trong danh mục các nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ.
Hàng năm, Sở phối hợp với phòng TN&MT các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến TNN. Công tác kiểm tra, thanh tra tập trung chủ yếu vào một số hoạt động quan trọng, như: Hành nghề khoan nước dưới đất, thăm dò, khai thác nước dưới đất, xả nước thải gây ô nhiễm nguồn nước. Qua thanh tra, kiểm tra, Sở đã tuyên truyền, hướng dẫn cho các tổ chức, cá nhân có hoạt động thăm dò, khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước tuân thủ các quy định của pháp luật.
Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã cấp được 197 giấy phép TNN, trong đó có 28 giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt; 72 giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất và 96 giấy phép xả nước thải vào nguồn nước.
Công ty TNHH MTV khai thác công trình thủy lợi được UBND tỉnh giao nhiệm vụ quản lý 17 hồ chứa, nhiều trạm bơm và cống ngăn mặn giữ ngọt Mỹ Trung phục vụ sản xuất nông nghiệp; đồng thời, bảo đảm an toàn công trình, cung cấp nước sinh hoạt cho các địa phương trên toàn tỉnh. Thời gian qua, Công ty luôn tăng cường bảo vệ nguồn nước, sử dụng tiết kiệm, chống suy thoái, chống cạn kiệt. Nhờ đó, vượt qua những khó khăn do thời tiết cực đoan, Công ty bảo đảm phục vụ tưới tiêu cho 30.000 ha lúa/năm.
Để quản lý và sử dụng bền vững nguồn TNN, trong thời gian tới, Sở TN&MT sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về TNN; tham mưu UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày Nước thế giới (22/3) nhằm đẩy mạnh tuyên tuyền các văn bản pháp luật về TNN cho các tổ chức, cộng đồng; nâng cao nhận thức cộng đồng trong khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả, bền vững TNN và bảo vệ nguồn nước.
Để phát triển bền vững, Sở tiếp tục huy động các nguồn lực, tiến hành Quy hoạch phân bổ và bảo vệ nước dưới đất và nước mặt trên địa bàn tỉnh; cắm mốc giới hành lang bảo vệ nguồn nước và vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt tại các hồ, đập đảm nhiệm cấp nước sinh hoạt; trước mắt, ưu tiên cho các hồ: Bàu Sen (Quảng Trạch), Vực Nồi (Bố Trạch) và Rào Đá (Quảng Ninh).
NGUYỄN HOÀNG TRUNG
Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình