Tác động của biến đổi khí hậu đến bình đẳng giới

Thứ tư, 19/10/2022, 15:28 (GMT+7)
logo Cả nam và nữ giới đều chịu tác động bất lợi của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, xét về năng lực ứng phó theo giới, nữ giới là nhóm có xu hướng dễ bị tổn thương, chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu và các rủi ro thiên tai hơn do các yếu tố về sức khỏe, khả năng tiếp cận thông tin, hạn chế trong tham gia vào quá trình ra quyết định tại cộng đồng.

Tác động đến phụ nữ và nam giới không đồng đều

Hiểm họa tác động lên phụ nữ và nam giới không đồng đều như nhau do họ các đặc điểm và mối quan hệ kinh tế, văn hóa và xã hội khác nhau. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ thường bị ảnh hưởng nặng nề hơn từ các loại hiểm họa so với nam giới. Những tác động khác nhau đó không hoàn toàn do sự khác biệt của phụ nữ và nam giới về sinh học, thể chất hay mức độ tiếp xúc với hiểm họa mà còn do tình trạng dễ bị tổn thương mang tính xã hội bắt nguồn từ các vai trò xã hội khác nhau cũng như các mô hình phân biệt giới hiện tại. Trong mỗi vùng, nhóm người nghèo, dân tộc thiểu số, những người có thu nhập phụ thuộc vào khí hậu, người già, phụ nữ, trẻ em, người bị bệnh tật được xác định là nhóm có mức tổn thương cao nhất do BĐKH. Nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số có mức độ tổn thương cao trước tác động bất lợi của BĐKH do họ bị hạn chế hơn về khả năng tiếp cận giáo dục và ít có cơ hội tham gia các công việc phi nông nghiệp. 

Tác động của biến đổi khí hậu đến bình đẳng giới

Giảm lượng phân đạm, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng nước tưới trong trồng lúa

Phụ nữ chiếm 50,7% tổng dân số Việt Nam, trong đó tỷ lệ phụ nữ ở thành thị và nông thôn lần lượt là 34,5% và 65,5%. Lao động nữ trong ngành nông nghiệp chiếm 63%, nhiều hơn so với nam giới (57%). Ở nông thôn, đa phần phụ nữ gắn bó với hoạt động sản xuất nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và công việc sau thu hoạch. Do đó khả năng bị tổn thương của lao động nữ cũng cao hơn nam giới khi ngành nông nghiệp là một trong những ngành chịu tác động bất lợi nhất của BĐKH.S ự phân công lao động theo giới trong từng lĩnh vực và trách nhiệm mà phụ nữ phải đảm nhận thêm do các chuẩn mực giới thường hạn chế sự tham gia tích cực của họ vào việc ra quyết định trong và ngoài phạm vi hộ gia đình. Phụ nữ ở các vùng nông thôn được Chính phủ tạo điều kiện tiếp cận tín dụng ưu đãi nhưng hiện không có thông tin nêu bật mối liên hệ của chương trình này với tính dễ bị tổn thương do BĐKH hoặc mức độ chịu rủi ro khí hậu của phụ nữ. Ở nông thôn, phụ nữ cần tiếp cận với công nghệ mới và đa dạng hóa sinh kế để chủ động ứng phó những tác động của BĐKH.

Báo cáo mới đây của Bộ TN&NT cho thấy, hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng làm tăng tác động bất lợi đến đời sống kinh tế của gia đình, giảm thu nhập, tăng đói nghèo, gây khó khăn cho sinh kế của người dân góp phần gia tăng tỷ lệ di cư. Số lượng phụ nữ di cư khỏi nơi sinh sống từ khu vực nông thôn, miền núi ra các thành phố, đô thị, khu công nghiệp ngày càng tăng và cao hơn nhiều so với số lượng nam giới di cư. Trong bối cảnh di cư và xa gia đình, phụ nữ phải bươn chải, đối mặt với nhiều loại rủi ro, khó khăn, thách thức lớn hơn trong cuộc sống. Trong các nhóm lao động nữ, phụ nữ dân tộc thiểu số có mức độ rủi ro cao hơn trước BĐKH do khả năng tiếp cận với giáo dục hạn chế và không có khả năng rời khỏi cộng đồng, thiếu quyền ra quyết định và trình độ học vấn thường thấp hơn nam giới.

Tác động đến an ninh nguồn nước và sức khỏe nữ giới

Vấn đề an ninh nguồn nước do BĐKH thường gây ra tác động nghiêm trọng hơn đến phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo, vì vai trò truyền thống trong gia đình, phụ nữ thường là người đi lấy nước chính. Điều đó đã hạn chế các cơ hội tiếp xúc và tham gia các hoạt động xã hội, giáo dục và kinh tế của họ. Mặc dù phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho gia đình nhưng trong nhiều chính sách quốc gia liên quan đến TNN và giới, phụ nữ được coi là một trong nhiều nhóm dễ bị tổn thương và chủ yếu được coi là đối tượng thụ hưởng nên các chính sách hiếm khi tập trung vào phụ nữ như những tác nhân tiềm năng để bảo vệ TNN. Nhiều chính sách hiện có về quản lý TNN chưa đề cập đến yếu tố giới, do đó chưa ứng phó hiệu quả với các tác động có yếu tố giới của tình trạng khan hiếm nước mà còn có khả năng làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng hiện có. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có cơ chế giám sát và đánh giá về lồng ghép giới trong các chính sách quản lý TNN.

Tác động của biến đổi khí hậu đến bình đẳng giới

Biến đổi khí hậu khiến nhiều vùng hạn hán, thiếu nước

Biến đổi khí hậu, thiên tai, hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng làm tăng ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của phụ nữ, tăng tỷ lệ mắc bệnh tật, bệnh dịch nhất là đối với phụ nữ đang mang thai, bé gái, phụ nữ đang mắc bệnh mạn tính, phụ nữ cao tuổi. Phụ nữ vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong các công việc chăm sóc và nội trợ nhưng không được trả lương trong gia đình, vì vậy khi BĐKH và thiên tai xảy ra, các nguồn lực giảm, càng đặt gánh nặng lên vai người phụ nữ và có thể gây ra tác động lâu dài về mặt sức khoẻ cho phụ nữ. BĐKH, thiên tai cũng làm tăng tỷ lệ tử vong, thương vong và mất tích của phụ nữ. Khan hiếm nước gia tăng và các điều kiện không vệ sinh cũng dẫn tới nguy cơ lây nhiễm các bệnh do nước như tiêu chảy và tả ở phụ nữ. Ô nhiễm nước do lũ lụt cũng gây ra các bệnh liên quan do thiếu nước sạch và vệ sinh môi trường không đảm bảo như bệnh đau mắt, bệnh ngoài da, bệnh phụ nữ và các bệnh về đường hô hấp.

Trong thiên tai và BĐKH, nếu xác định được nguyên nhân dẫn tới tình trạng dễ bị tổn thương của phụ nữ và nam giới thì việc tìm ra các biện pháp giảm nhẹ tình trạng dễ bị tổn thương của từng giới sẽ giúp cho họ giảm nhẹ hoặc phòng tránh được những rủi ro của thiên tai. Trong Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050 có nhiều nhóm nhiệm vụ và giải pháp quan trọng. Trong đó có việc thực hiện tăng cường các giải pháp cung cấp nước sạch cho khu vực nông thôn, miền núi, ven biển đặc biệt là những vùng chịu tác động của bão, lũ, hạn hán, xâm nhập mặn. Phát triển mạng lưới y tế, chăm sóc sức khỏe, đáp ứng yêu cầu về phòng chống dịch bệnh và các bệnh mới phát sinh do BĐKH. Bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường; đầu tư phát triển công nghệ, trang thiết bị trong dự phòng và điều trị các bệnh gia tăng do BĐKH. Xây dựng và nhân rộng các mô hình của ngành y tế và sức khỏe cộng đồng nhằm nâng cao khả năng chống chịu của cộng đồng, thích ứng với BĐKH. Từ nay đến năm 2030, tập trung tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng cấp nước và năng lực cung cấp nước sạch cho dân cư; phát triển mạng lưới y tế, chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh, ưu tiên các đối tượng dễ bị tổn thương, các vùng dân tộc ít người; tăng cường hệ thống giám sát và cảnh báo sớm các tác động của BĐKH đến sức khỏe. Bảo đảm an sinh xã hội và bình đẳng giới: Phát triển các mô hình sinh kế bền vững, chú trọng đào tạo, chuyển đổi nghề và hỗ trợ công nghệ, tiếp cận các nguồn vốn cho người dân ở những vùng chịu nhiều rủi ro, dễ bị tổn thương trước tác động của BĐKH. Nâng cao nhận thức, kiến thức, năng lực quản lý rủi ro thiên tai và thích ứng với BĐKH cho cán bộ, hội viên phụ nữ, thanh thiếu niên, người dân, đặc biệt ở vùng có nguy cơ cao về thiên tai. Từ nay đến năm 2030, tăng cường vai trò, năng lực và sự tham gia của phụ nữ và thanh thiếu niên trong hoạt động thích ứng với BĐKH và quản lý rủi ro thiên tai; đẩy mạnh các phong trào, hoạt động nâng cao nhận thức, kiến thức cho thanh thiếu niên về BĐKH và các giải pháp trong phòng chống thiên tai, thích ứng với BĐKH.

PHƯƠNG ĐÔNG