
Ảnh minh họa
Gia tăng xói lở bờ biển, lũ quét, sạt lở đất đá
Trong thời gian qua, hầu hết bờ biển Việt Nam đều đang bị phá hủy (mài mòn trên các bờ đá, xói lở trên các bờ cát và bùn-sét) ở mức độ khác nhau. Từ năm 1990-2000 có 157 đoạn bờ bị xói lở; từ năm 2001 đến nay hầu hết đường bờ biển đều bị xói lở. Hiện nay, mức độ xói lở bờ biển ở Việt Nam ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như cường độ, đặc biệt trên các đoạn bờ cấu tạo từ trầm tích bở rời. Một số khu vực bờ biển bị xói lở điển hình như: Bãi tắm Nhật Lệ 2 (Khu vực Bắc Trung Bộ) bị sạt lở khoảng 400 m. Tại khu vực Nam Bộ, sóng biển đã phá hủy hơn 10 ha rừng phòng hộ, sạt lở hoàn toàn hơn 2 km đê biển ở các xã Trường Long Hòa, Dân Thành, Hiệp Thạnh, tỉnh Trà Vinh; phá hủy tuyến đê biển dài 72 km ở nhiều đoạn thuộc huyện Vĩnh Châu và Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng; gây sạt lở hơn 40 km bờ biển ở tỉnh Cà Mau, trong đó có 4 khu vực sạt lở nguy hiểm dài hơn 17 km thuộc các khu vực đê biển Tây và cửa biển Gành Hào, huyện Đầm Dơi; gây sạt lở trên 60 điểm của tuyến đê phòng hộ dài gần 100 km ở vùng biển Tây từ An Minh đến Kiên Lương.
Nước biển dâng làm gia tăng xói lở, bồi tụ bờ biển, những năm gần đây mực nước biển thực đo tại các trạm hải văn có xu thế tăng với tốc độ mạnh nhất là 5,58 mm/năm; vùng ĐBSCL có mực nước dâng tại trạm Thổ Chu là 5,28 mm/năm. Kịch bản BĐKH và NBD cho Việt Nam cho thấy, khu vực ĐBSCL sẽ ngập chìm từ 19÷39% nếu mực nước biển dâng thêm 1,0 m, sẽ làm tăng khả năng gây xói lở bờ biển, vùng cửa sông ven biển và suy thoái rừng ngập mặn ven biển. BĐKH làm tăng lưu tốc dòng chảy về mùa lũ và tạo ra chênh lệch mực nước lớn hơn trước đây giữa mùa lũ và mùa kiệt cũng là những tác động làm gia tăng nguy cơ sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển vùng cửa sông.
Sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển tại ĐBSCL diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng sạt lở xảy ra ở toàn bộ 13 tỉnh, thành phố thuộc khu vực ĐBSCL, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là ở An Giang, Đồng Tháp, Cà Mau, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang. Theo thống kê, đến năm 2018, khu vực ĐBSCL có 562 vị trí bờ sông, bờ biển bị sạt lở, với tổng chiều dài 786 km, trong đó có 42 vị trí sạt lở đặc biệt nguy hiểm với chiều dài 149 km. Tình hình sạt lở không những diễn ra vào mùa mưa, mà còn xuất hiện cả mùa khô và diễn ra ở các tuyến sông chính, cho đến các hệ thống kênh, rạch với mức độ ngày càng nhiều và nguy hiểm.
Theo báo cáo của Bộ TN&MT, tác động của BĐKH đến lũ quét, sạt lở đất đá được đánh giá thông qua tác động đến yếu tố mưa đặc biệt lớn. Vùng Tây Bắc: Khu vực có nhiều ngày mưa đặc biệt lớn có khả năng gây lũ quét, sạt lở chủ yếu tập trung ở khu vực phía Tây Bắc của huyện Mường Tè, thị xã Mường Lay của tỉnh Lai Châu, các huyện Mường La, Phù Yên, Vân Hồ của tỉnh Sơn La, các huyện Sa Pa, Than Uyên của tỉnh Lào Cai, TP. Yên Bái và các huyện Lục Yên, Mù Căng Chải của tỉnh Yên Bái và hầu hết tỉnh Hòa Bình. Đây chính là các khu vực đã từng xảy ra lũ quét, sạt lở đất. Dưới tác động của BĐKH, số ngày có khả năng xảy ra lũ quét, sạt lở ở các khu vực đều tăng lên với phạm vi mở rộng đáng kể, bao gồm toàn bộ huyện Mường Tè, thị xã Mường Lay, tỉnh Lai Châu, các huyện Than Uyên, Sa Pa, tỉnh Lào Cai, gần như toàn bộ tỉnh Yên Bái, các huyện Mường La, Phù Yên, Vân Hồ, Quỳnh Nhai, Sông Mã, Mộc Châu, tỉnh Sơn La và toàn bộ tỉnh Hòa Bình. Trong tương lai dưới tác động của BĐKH, phạm vi xuất hiện lũ quét, sạt lở trên vùng khí hậu Tây Bắc sẽ mở rộng thêm. Vùng Đông Bắc: Khu vực có nhiều ngày mưa đặc biệt lớn có khả năng gây lũ quét, sạt lở chủ yếu tập trung nhiều nhất ở huyện Bắc Quang của tỉnh Hà Giang, TP. Thái Nguyên, phần lớn tỉnh Quảng Ninh (trừ TX. Đông Triều, TX. Quảng Yên và TP. Uông Bí). Dưới tác động của BĐKH, số ngày có khả năng xảy ra lũ quét, sạt lở ở các khu vực đều tăng lên, tuy nhiên, khu vực có nhiều ngày mưa có khả năng sinh lũ quét, sạt lở chỉ mở rộng phần lớn trong tỉnh Hà Giang; một phần các huyện Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang giáp với tỉnh Hà Giang, một phần các huyện Đại Từ, Phổ Yên của tỉnh Thái Nguyên giáp với tỉnh Vĩnh Phúc, một phần huyện Đình Lập của tỉnh Lạng Sơn giáp với tỉnh Quảng Ninh và gần như toàn bộ tỉnh Quảng Ninh. BĐKH có khả năng làm gia tăng phạm vi xuất hiện lũ quét, sạt lở cho khu vực thuộc vùng Đông Bắc. Vùng Đồng bằng Bắc Bộ: Trong thời kỳ cơ sở, khu vực có nhiều ngày mưa đặc biệt lớn có khả năng gây lũ quét, sạt lở chủ yếu tập trung ở huyện Tam Đảo của tỉnh Vĩnh Phúc, một số khu vực khác có khả năng sạt lở như TP. Nam Định và huyện Văn Lý tỉnh Nam Định, TP. Ninh Bình và huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình. Dưới tác động của BĐKH, số ngày có khả năng xảy ra sạt lở ở các khu vực đều tăng lên với phạm vi mở rộng hơn ở huyện Ba Vì, TP. Hà Nội, các tỉnh Hà Nam, Thái Bình. BĐKH có khả năng gia tăng phạm vi xuất hiện sạt lở cho khu vực thuộc vùng Đồng bằng Bắc Bộ nhưng ít hơn so với các vùng khác. Vùng Bắc Trung Bộ: Trong thời kỳ cơ sở, khu vực có nhiều ngày mưa đặc biệt lớn có khả năng gây lũ quét, sạt lở chủ yếu tập trung ở các huyện: Như Xuân, Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa, các huyện Đô Lương, Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, và phần lớn các khu vực của các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế. Dưới tác động của BĐKH, số ngày có khả năng xảy ra lũ quét, sạt lở ở các khu vực đều tăng lên với phạm vi mở rộng đáng kể, bao gồm các huyện: Yên Định, Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa, các huyện Quỳ Châu và Con Cuông tỉnh Nghệ An, các khu vực khác của tỉnh Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế. Trong tương lai dưới tác động của BĐKH, phạm vi xuất hiện lũ quét, sạt lở trên vùng khí hậu Bắc Trung Bộ sẽ mở rộng thêm, đặc biệt là sạt lở.
Vùng Nam Trung Bộ: Trong thời kỳ cơ sở, khu vực có nhiều ngày mưa đặc biệt lớn có khả năng gây lũ quét, sạt lở (chủ yếu là sạt lở) chủ yếu tập trung ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và một số khu vực của tỉnh Bình Định, Phú Yên. Dưới tác động của BĐKH, số ngày có khả năng xảy ra sạt lở mở rộng phạm vi đối với các khu vực khác của các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và một số khu vực của tỉnh Khánh Hòa. Trong tương lai dưới tác động của BĐKH, phạm vi xuất hiện sạt lở trên vùng khí hậu Nam Trung Bộ sẽ mở rộng thêm.
Vùng Tây Nguyên: Trong thời kỳ cơ sở, khu vực có nhiều ngày mưa đặc biệt lớn có khả năng gây lũ quét, sạt lở chủ yếu tập trung ở các huyện M’Drắk của tỉnh Đắk Lắk. Dưới tác động của BĐKH, số ngày có khả năng xảy ra lũ quét, sạt lở (chủ yếu là sạt lở) mở rộng phạm vi bao gồm các huyện An Khê tỉnh Gia Lai, huyện Đắk Nông tỉnh Đắk Song và huyện Bảo Lộc tỉnh Lâm Đồng. Vùng Nam Bộ: Khu vực có nhiều ngày mưa đặc biệt lớn có khả năng gây lũ quét, sạt lở (chủ yếu là sạt lở) chủ yếu tập trung ở các TX. Phước Long tỉnh Bình Phước và huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh. Dưới tác động của BĐKH, số ngày có khả năng xảy ra sạt lở mở rộng phạm vi bao gồm các huyện Mộc Hóa tỉnh Long An và TP. Rạch Giá tỉnh Kiên Giang. Tác động của BĐKH đến sạt lở do mưa lớn đối với các tỉnh thuộc vùng Nam Bộ là nhiều, chủ yếu là sạt lở bờ sông và xói lở bờ biển.
Giải pháp phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển
Trước thực tế trên, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 379/QĐ-TTg về Chiến lược Quốc gia về PCTT đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đề cập các giải pháp quan trọng để phòng chống sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng. Đặc biệt, việc hoàn thiện văn bản QPPL liên quan đến công tác quản lý sạt lở bờ sông, bờ biển; tăng cường quản lý nhà ở ven sông, ven biển hạn chế nguy cơ sạt lở. Đồng thời, từng bước di dời nhà ở, công trình xây dựng trái phép bảo đảm ổn định lâu dài; quản lý việc khai thác cát, khai thác nước ngầm; tổ chức xây dựng công trình chỉnh trị và công trình bảo vệ bờ sông, bờ biển; nghiên cứu xây dựng phương án chỉnh trị sông, bờ biển đảm bảo phát triển bền vững vùng ven sông, ven biển,…
Bộ NN&PTNT đã phối hợp với các bên liên quan trình Chính phủ và Quốc hội hỗ trợ các tỉnh vùng ĐBSCL hơn 6.622 tỷ đồng từ ngân sách trung ương để xử lý sạt lở bờ sông, đê biển; phối hợp với Bộ KH&ĐT trình Thủ tướng hỗ trợ 2.000 tỷ đồng từ nguồn vốn ODA của Ngân hàng Thế giới hỗ trợ các tỉnh ĐBSCL xử lý cấp bách các khu vực sạt lở. Chính phủ có chính sách điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách vay vốn ưu đãi làm nhà ở cho người dân tại vùng ngập lũ thường xuyên và vùng sạt lở nguy hiểm thuộc các tỉnh: An Giang, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long và TP. Cần Thơ, từ nay đến năm 2025 được vay vốn xây dựng nhà ở tại các cụm tuyến dân cư mới, với mức vay tối đa 40 triệu đồng/hộ, lãi suất 3%/năm. Thời hạn vay tối đa 15 năm đối với các hộ nghèo và cận nghèo, 10 năm đối với các hộ khác,... Thực hiện tốt Quyết định 957/QĐ-TTg về phê duyệt đề án phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển đến năm 2030. Trong đó, các địa phương tập trung vào các nhiệm vụ như rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến công tác phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển; tổ chức điều tra cơ bản, xây dựng cơ sở dữ liệu, thiết kế quy hoạch bờ sông, bờ biển; triển khai thực hiện các các công trình, phi công trình để phòng, chống sạt lở.
Cơ quan quản lý, chính quyền địa phương xây dựng phương án phòng chống sạt lở bờ sông vùng ĐBSCL; hướng dẫn, đôn đốc các địa phương lồng ghép các nội dung phòng chống thiên tai nói chung và phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển nói riêng vào kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương làm cơ sở thực hiện.
Tổng cục PCTT phối hợp với các địa phương triển khai việc quản lý, di dời dân cư khỏi khu vực sạt lở bờ sông, bờ biển. Các tỉnh, thành phố cần đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ phòng, chống sạt lở; tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, chia sẻ thông tin dữ liệu, kinh nghiệm trong phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển. Các địa phương tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, tài chính của các quốc gia, các tổ chức quốc tế đối với công tác phòng, chống sạt lở; chủ động bố trí NSNN, tăng cường huy động các nguồn lực ngoài ngân sách, đặc biệt là nguồn lực từ khối tư nhân, doanh nghiệp và người dân được hưởng lợi cho công tác phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển.
NGUYỄN MẠNH
Bộ Tài nguyên và Môi trường