
Tóm tắt
Mô hình giá trị phù hợp của Ohlson (1995) được sử dụng đầu tiên nhằm đánh giá tác động của esg đến phản ứng của thị trường chứng khoán. Mô hình thứ hai sử dụng roe làm biến phụ thuộc nhằm đánh giá tác động của esg đến khả năng sinh lời của các doanh nghiệp. Kết quả hồi quy fgls cho thấy, esg có tác động tích cực đến cả roe và thị giá cổ phiếu (marlet value - mv). Từ kết quả hồi quy, bài nghiên cứu gợi ý một số khuyến nghị cho doanh nghiệp, nhà hoạch định chính sách và nhà đầu tư. Doanh nghiệp cần thiết phải đặt esg trong chiến lược hoạt động dài hạn của mình. Esg không chỉ là một xu hướng nhất thời, mà thực hiện esg thực sự có tác động tích cực đến lợi ích của doanh nghiệp cũng như cổ đông.
Từ khóa: Esg, động lực thực hiện, phát triển bền vững, COP26
Giới thiệu
Do yêu cầu của xu thế phát triển bền vững, các yếu tố về môi trường, xã hội và quản trị (esg) đang thu hút sự quan tâm của Chính phủ cũng như các nhà đầu tư trên quy mô toàn cầu hơn bao giờ hết. Theo pwc, tại Việt Nam đã có tới 87% doanh nghiệp xác định được các mục tiêu esg, tuy nhiên chỉ có 66% doanh nghiệp đã triển khai esg vào trong quá trình hoạt động nhưng chỉ 22% trong số các doanh nghiệp đó thực hiện đầy đủ cả 3 khía cạnh môi trường (e), xã hội (s) và quản trị (g). Số liệu thống kê này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã có những triển khai bước đầu về esg, nhưng tỷ lệ các doanh nghiệp thực hiện vẫn còn ở mức thấp. Doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự đánh giá cao tầm quan trọng của phát triển bền vững hay sự thiết yếu của esg. Việc đầu tư vào esg thường được coi là khá tốn kém, đòi hỏi nhiều thời gian trong khi giá trị có được trong dài hạn chưa thực sự rõ ràng. Điều này khiến các doanh nghiệp thiếu đi động lực trong việc có những hành động cụ thể về esg. Xuất phát từ lý thuyết các bên liên quan, mục tiêu bài nghiên cứu là làm rõ những động lực thúc đẩy doanh nghiệp tuân thủ, thực hiện esg trong bối cảnh xu hướng phát triển bền vững toàn cầu.
Để hoàn thành mục tiêu này, dựa trên các số liệu thu thập được, nghiên cứu thực hiện hai mô hình hồi quy nhằm xác định động lực thực hiện esg từ 26 doanh nghiệp niêm yết từ 2018 đến 2023. Mô hình thứ nhất (1) được sử dụng nhằm đánh giá tác động của esg đến khả năng sinh lời của các doanh nghiệp. Biến phụ thuộc đại diện cho khả năng sinh lời được tác giả sử dụng là Roe, biến độc lập là chỉ số esg. Mô hình thứ hai (2) xác định tác động của esg đến thị giá của cổ phiếu. tác giả sử dụng mô hình giá trị phù hợp (value relevance) của Ohlson (1995), với biến phụ thuộc là thị giá cổ phiếu với độ trễ 3 tháng.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chọn mẫu
Nhằm xem xét động lực công bố báo cáo phát triển bền vững, tác giả thu thập dữ liệu từ các doanh nghiệp niêm yết có thực hiện công bố báo cáo esg được niêm yết trên hai sàn giao dịch hose và hnx. Những doanh nghiệp không công bố hoặc thực hiện trước 2018 sẽ được loại bỏ để đảm bảo tính thống nhất của mẫu nghiên cứu. Kết quả cuối cùng là bộ dữ liệu 156 quan sát bao gồm 26 doanh nghiệp niêm yết từ năm 2018 đến 2023. Điểm tổng hợp esg được thu thập từ dữ liệu của bloomberg terminal, các chỉ số khác được tác giả lấy trên nền tảng fiinprox.
Mô hình nghiên cứu
Tác giả thực hiện hai mô hình hồi quy tuyến tính nhằm nghiên cứu động lực thực hiện báo cáo phát triển bền vững. mô hình hồi quy thứ nhất (1) xem xét vai trò của esg đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Quy mô doanh nghiệp cũng như các chỉ số vĩ mô được tác giả đưa vào mô hình để kiểm soát các nhân tố có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Mô hình thứ hai (2) xác định phản ứng của thị trường đến các doanh nghiệp công bố báo cáo esg. Thừa hưởng từ một số lượng lớn các nghiên cứu về giá trị phù hợp (value relevance), tác giả sử dụng mô hình của Ohlson (1995) nhằm đánh giá phản ứng của thị trường từ những thông tin tài chính và phi tài chính:
(1) roeit = 0 + 1esgit + 2sizeit + 3ageit + 4gdpit + 5infit + ɛit
(2) mvit3m = 0 + 1bvit + 2riit + 3esgit + 4sizeit + 5ageit + ɛit
0: hệ số chặn; 1,2…4: các hệ số của biến độc lập; ɛ: sai số mô hình; i: doanh nghiệp I; t: năm t.
Kết quả nghiên cứu
Tác giả đã kiểm định hiện tượng tự tương quan và kiểm định phương sai sai số thay đổi cho cả hai mô hình. Kết quả kiểm định cho thấy, cả hai đều mắc khuyết tật lỗi mô hình. Vì vậy, các phương pháp ước lượng ols, fem, rem đều mất đi tính hiệu quả trong việc sử dụng sai số chuẩn để đảm bảo tính vững của các kết luận. Tuy nhiên, phương pháp fgls lại có thể khắc phục được các khuyết tật này. Do đó, ở nội dung này tác giả sẽ chỉ trình bày kết quả hồi quy của phương pháp fgls. Kết quả hồi quy như sau:
Bảng 1: Tóm tắt các biến trong mô hình
Bảng 2: Kết quả hồi quy từ phương pháp fgls
Ghi chú: ***, ** và * Chỉ mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% theo thứ tự t-statistic trong ngoặc.
Thứ nhất, kết quả của mô hình đánh giá tác động của esg đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (1) cho thấy, mối quan hệ cùng chiều giữa esg và roe với ý nghĩa thống kê cao. Do đó, chúng tôi chấp nhận giả thuyết h1: esg có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động. Điều này chứng minh rằng, esg không chỉ là một việc doanh nghiệp cần đáp ứng từ xu hướng của thị trường, mà việc áp dụng esg trong chiến lược hoạt động thực sự có tác động đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hai biến số vĩ mô đều có kết quả trùng với các nghiên cứu của (b. a. alareeni & a. hamdan, 2020; duy thanh nguyen et al, 2022),… với ý nghĩa thống kê cao. Trong đó, tốc độ tăng trưởng gdp có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động, ngược lại với ảnh hưởng của lạm phát (inf).
Thứ hai, kết quả mô hình (2) cho thấy chỉ số esg có tác động tích cực đến thị giá cổ phiếu (mv) với ý nghĩa thống kê cao. Chúng tôi chấp nhận giả thuyết h2: esg có tác động tích cực đến thị giá cổ phiếu. Điều này cho thấy, thị trường có coi trọng việc các doanh nghiệp thực hiện esg trong việc ra quyết định đầu tư. Kết quả này đồng nhất với nghiên cứu của (D. junius et al, 2020; Xiaoling yu & Kaitian xiao, 2022). Hai biến độc lập khác trong mô hình Ohlson (1995) là bvps và ri cũng có tác động tích cực với ý nghĩa thống kê cao. Điều này thể hiện thông tin công bố phù hợp và tin cậy, có tác dụng giúp người sử dụng đưa ra quyết định. Biến kiểm soát size có tác động tích cực với ý nghĩa thống kê cao ở cả hai mô hình. Biến kiểm soát còn lại là age chỉ có ý nghĩa thống kê ở mô hình đầu tiên, có tác động tiêu cực đến thị giá. điều này cho thấy thị trường có phản ứng không tốt với các doanh nghiệp hoạt động lâu đời.
Kết luận và thảo luận kết quả nghiên cứu
Bài nghiên cứu này được tác giả áp dụng hai mô hình hồi quy nhằm tìm kiếm các động lực đến việc thực hiện esg tại Việt Nam. Mô hình thứ nhất tìm kiếm mối quan hệ giữa esg và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, esg có tác động tích cực đến roe với ý nghĩa thống kê cao. Mô hình thứ hai phân tích phản ứng của thị trường với các thông tin về phát triển bền vững được các doanh nghiệp công bố. Kết quả chỉ ra, điểm số esg có ảnh hưởng tích cực đến thị giá của các doanh nghiệp niêm yết. Điều này chỉ ra, các thông tin về thực hiện esg được thị trường quan tâm, là một trong những biến số đầu vào giúp các nhà đầu tư đưa ra quyết định.
Mặc dù khái niệm và tầm quan trọng của esg đã trở nên phổ biến hơn trong những năm gần đây, tính thực dụng về việc thực hiện esg vẫn là một trở ngại ngăn cản các doanh nghiệp có những hành động cụ thể. Không nhiều doanh nghiệp sẵn sàng chi trả những chi phí ở thời điểm hiện tại khi kết quả nhận được trong dài hạn vẫn còn mơ hồ. Có định kiến cho rằng, thực hiện esg cũng giống như một xu thế ngắn hạn, hay trào lưu nhất thời để lấy hình ảnh trong mắt công chúng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra esg thực sự là một chiến lược hoạt động có tác dụng được phản ánh trực tiếp vào hiệu quả hoạt động cũng như thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra các động lực thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện esg. Động lực đó là chính những lợi ích cụ thể cho các doanh nghiệp. Có rất nhiều hiệu ứng tích cực từ việc áp dụng esg vào chiến lược hoạt động, như: Tăng tính minh bạch trong hoạt động công bố thông tin, làm đẹp hình ảnh trong mắt công chúng qua các hành động bảo vệ môi trường, tăng niềm tin và mức độ trung thành từ khách hàng, tận dụng được ưu đãi chính sách,... và yếu tố quản trị là thành phần thiết yếu cho các bước đi đúng hướng. Tất cả điều này được phản ánh trực tiếp vào khả năng sinh lời và thị giá của cổ phiếu.
Bằng chứng thực nghiệm đã gợi ra một số khuyến nghị cho doanh nghiệp, nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư. Doanh nghiệp cần thiết phải đặt esg trong chiến lược hoạt động trung và dài hạn. Mặc dù chưa có quy định bắt buộc về việc công bố cũng như thực hiện esg, đây là một cơ hội cho các doanh nghiệp có thể đi trước nhằm đáp ứng xu hướng chung hiện nay. Các nhà hoạch định chính sách nên đưa ra những quy định rõ ràng về một bộ khung các tiêu chí liên quan đến esg, từ đó có chỉ tiêu đo lường một cách chính xác. Các nhà đầu tư nên đánh giá cả những thông tin phi tài chính như báo cáo phát triển bền vững, chứ không chỉ giới hạn ở những thông tin tài chính thuần túy như trước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nghiên cứu chúng tôi vẫn còn một số hạn chế:
Thứ nhất, mẫu nghiên cứu chỉ tập trung ở Việt Nam với 26 doanh nghiệp có báo cáo esg đều đặn. Điều này khiến kết quả nghiên cứu không có tính đại diện, khó có thể áp dụng tại các quốc gia, thị trường khác. Những nghiên cứu trong tương lai có thể cân nhắc mở rộng phạm vi mẫu nghiên cứu ra nhiều hơn một quốc gia, việc so sánh các kết quả từ nhiều thị trường khác nhau sẽ cung cấp một cái nhìn toàn cảnh hơn, từ đó có thể chỉ ra đặc điểm chung và những điểm khác biệt.
Thứ hai, thời gian nghiên cứu là giai đoạn từ 2018 - 2023, khoảng thời gian 5 năm chỉ giúp đánh giá được sự tác động trong ngắn hạn. Lý do dẫn đến điều này là vì các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ triển khai báo cáo esg trong khoảng thời gian gần đây nên số liệu thu thập được còn hạn chế. Những nghiên cứu trong tương lai có thể mở rộng thời gian điều tra để đánh giá tác động toàn diện trong dài hạn.
Cho đến nay, Việt Nam chưa có quy định pháp lý bắt buộc cho công bố báo cáo phát triển bền vững, các tiêu chuẩn còn chưa thống nhất với nhau và các doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức rõ ràng về vấn đề thực hiện esg. Vậy trong thời gian dài hơn nữa, khi Việt Nam có các luật định chính thức và quy định bắt buộc đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ đến lớn thì mới nhận thấy được rằng việc quyết thực hiện esg trong quá khứ có tác động mạnh mẽ đến hiệu suất hoạt động và khả năng sinh lợi trong tương lai hay không.
Tài liệu tham khảo
1. Ali, j. o. (2016). Esg investing in emerging and frontier markets. journal of applied corporate finance, 96-101;
2. Ohlson, j. a. (1995). Earnings, book values, and dividends in equity valuation. Contemporary accounting research, 661-687;
3. Paulina inggita prabawati & Isna putri rahmawati. (2022). The effects of environmental, social, and governance (esg) scores on firm values in asean member countries. Jurnal akuntansi & Auditing Indonesia;
4. S.pulino et al. (2022). Does esg disclosure influence firm performance? Sustainability;
5. Shaikh, i. (2022). Environmental, social, and governance (esg) practice and firm performance: An international evidence. journal of business economics and management, 218-237;
6. Turhan korkmaz & Tugba nur. (2023). The effect of esg sustainability on firm performance: A view under size and age on bist bank index firms. Journal of research in economics, 208-223;
7. Yiming xu & Naiping zhu. (2024). The effect of environmental, social, and governance (esg) performance on corporate financial performance in China: based on the perspective of innovation and financial constraints. Sustainability.
8. Zhang, j. (2024). An empirical analysis of esg scores and firm performance based on the csi 300 index. Highlights in business economics and management, 448-457…
NGUYỄN THÀNH TRUNG1
Viện Ngân hàng - Tài chính, Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 21 (Kỳ 1 tháng 11) năm 2024