
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với tài nguyên nước
Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 36-KL/TW về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chính phủ cũng tăng cường công tác triển khai các hoạt động hướng đến đảm bảo an ninh nguồn nước; cải tạo, phục hồi các dòng sông suy thoái cạn kiệt, ô nhiễm; khai thác sử dụng, bảo vệ TNN phải phù hợp với chức năng và khả năng đáp ứng của nguồn nước, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước. Trong đó, mới đây nhất, Chính phủ đã ban hành Quy hoạch TNN quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long,...
Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến nguồn nước. Để có thêm những giải pháp trong quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững nguồn TNN, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1622/QĐ-TTg ngày 27/12/2022 phê duyệt Quy hoạch TNN thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập các quy hoạch ngành quốc gia có khai thác, sử dụng nước, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, mang tính chiến lược, dài hạn và tổng thể nhằm phát triển bền vững TNN.
Theo thống kê, Việt Nam có 3.450 sông, suối với chiều dài từ 10 km trở lên, trong đó có 697 sông, suối, kênh, rạch thuộc nguồn nước liên tỉnh, 173 sông, suối, kênh, rạch thuộc nguồn nước liên quốc gia và 38 hồ, đầm phá liên tỉnh. Tổng lượng dòng chảy hàng năm khoảng 844,4 tỷ m3. Nước ta cũng là quốc gia có nhiều tiềm năng về nguồn nước dưới đất, tuy nhiên chỉ tập trung chủ yếu ở các khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, Đồng bằng Nam Bộ và khu vực Tây Nguyên, tổng trữ lượng tiềm năng nước dưới đất trên toàn lãnh thổ ước tính khoảng 91,5 tỷ m3/năm (nước nhạt khoảng 69,1 tỷ m3/năm, nước mặn khoảng 22,4 tỷ m3/năm).
Tổng lượng nước bình quân trên đầu người của Việt Nam vào khoảng 8.610 m3/người/năm, cao hơn so với tiêu chuẩn của khu vực và trên toàn cầu. Tuy nhiên, nếu chỉ xét nguồn nước nội sinh của Việt Nam thì tổng lượng nước bình quân trên đầu người chỉ đạt 3.280 m3/người/năm, thấp hơn so với trung bình của Đông Nam Á là 4.900 m3/người/năm. Mặc dù được đánh giá là quốc gia có nguồn TNN khá phong phú và dồi dào song Việt Nam cũng là một trong những nơi hứng chịu nhiều thảm họa thiên tai lớn nhất ở Đông Nam Á, Thái Bình Dương. Cùng với đó, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, mức độ rủi ro thiên tai ngày càng tăng đã khiến cho nguồn TNN của nước ta đối mặt với nhiều thách thức lớn.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW về: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, đến nay đã có khoảng hơn 24.000 công trình khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước được quản lý từ trung ương đến địa phương thông qua công cụ cấp phép.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy vi phạm trong lĩnh vực TNN và môi trường hiện nay vẫn còn phổ biến. Vì vậy, thời gian tới, cần tạo hành lang pháp lý đồng bộ để quản lý TNN, thúc đẩy sự phát triển bền vững KT-XH của đất nước.
Theo báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW được Cục Quản lý TNN gửi Bộ TN&MT, từ năm 2013 đến nay, các cơ quan Trung ương đã thực hiện hàng chục cuộc thanh, kiểm tra TNN đối với 206 cơ sở khai thác và xả nước thải vào nguồn nước trên địa bàn 40 tỉnh, thành phố và đã phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm về khai thác, sử dụng nước như: chưa có giấy phép, khai thác vượt quy định giấy phép; không thực hiện quan trắc giám sát theo quy định của giấy phép.
Trên cơ sở đó, các cơ quan Trung ương đã xử phạt các cơ sở vi phạm gần 15 tỷ đồng. Ngoài ra, qua kiểm tra báo cáo định kỳ, theo dõi qua hệ thống giám sát tự động trực tuyến, Bộ TN&MT cũng đã đề nghị các địa phương xử phạt hàng trăm trường hợp vi phạm quy định của giấy phép về khai thác sử dụng nước. Ở cấp địa phương, theo số liệu báo cáo của 63 tỉnh, thành phố, trong 10 năm qua, các địa phương đã triển khai gần 3.000 cuộc thanh tra, kiểm tra về TNN đối với gần 19.000 đối tượng khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước; qua đó phát hiện và xử lý hơn 1.500 hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực TNN với tổng số tiền phạt gần 59 tỷ đồng.
Theo Cục Quản lý TNN, Bộ TN&MT nguyên nhân dẫn tới các sai phạm trên là do có sự chồng chéo, không thống nhất trong quy định pháp luật, đối tượng, phạm vi quản lý, trách nhiệm quản lý giữa lĩnh vực TNN và các lĩnh vực chuyên ngành có liên quan. Mặt khác, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về quản lý TNN cũng chưa đầy đủ. Nhận thức của chính quyền, các tổ chức, cá nhân, người dân về vai trò của TNN và việc thực thi chấp hành pháp Luật TNN còn hạn chế. Cùng với đó, các chính sách liên quan đến bảo đảm an ninh nguồn nước chưa thực sự rõ ràng; việc quản lý các dòng sông, quản lý các tầng chứa nước, bảo vệ TNN, phòng, chống hậu quả do nước gây ra và cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, các cấp trong các vấn đề này chưa được quy định một cách hệ thống, rõ ràng, còn thiếu hoặc chưa đầy đủ để giải quyết các vấn đề thực tế.
Trong khi đó, nguồn lực đầu tư cho phát triển ngành nước chủ yếu từ ngân sách Nhà nước, thiếu cơ chế chính sách thu hút được sự tham gia của khu vực tư nhân; giá trị TNN chưa được tính toán, hạch toán đầy đủ.
Ngoài ra, công tác quy hoạch TNN triển khai còn chậm, chưa kịp thời đáp ứng được yêu cầu là cơ sở phân bổ, điều tiết nhu cầu nước của các ngành. Hiệu quả khai thác sử dụng nước trong các ngành còn thấp. Rừng đầu nguồn suy giảm và công tác bảo vệ nguồn sinh thủy chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức,…
Để khắc phục tình trạng trên, đồng thời tham gia đề xuất, kiến nghị chủ trương, chính sách quản lý TNN trong thời gian tới vào báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW, Việt Nam cần hướng tới quản trị TNN quốc gia trên nền tảng công nghệ số và tích hợp các quy định về quản lý nước trong Luật TNN để quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện các vấn đề về nước, đồng thời bảo đảm an ninh TNN quốc gia trên cơ sở thống nhất quản lý về TNN, đặc biệt là tạo hành lang pháp lý đồng bộ về TNN, thúc đẩy sự phát triển bền vững KT-XH của đất nước.
Thể chế hóa quan điểm TNN là tài nguyên đặc biệt quan trọng, thiết yếu, là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý TNN phải là cốt lõi trong xây dựng quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch dân cư, quy hoạch các ngành, lĩnh vực có khai thác sử dụng nước, hoạch định chiến lược phát triển đất nước; việc khai thác sử dụng tài nguyên môi trường nước phải theo quy định về quản lý, sử dụng tài sản công và phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài.
Nhiệm vụ, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam hiện nay
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng TNN trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tăng cường hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm cụ thể các chủ trương, quan điểm, định hướng của Đảng như: Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/06/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/06/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,... Trên cơ sở đó, xác định rõ phạm vi điều chỉnh, đối tượng quản lý thuộc lãnh thổ, theo lưu vực sông nội địa, sông liên quốc gia phù hợp với điều kiện tự nhiên, lịch sử và luật pháp quốc tế. Sắp xếp, kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý nguồn nước bảo đảm thống nhất, hiệu quả từ trung ương đến địa phương và sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp; rà soát, thống nhất đơn vị quản lý, khai thác thủy lợi vùng, quốc gia.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát, bảo vệ TNN. Triển khai thực hiện quy hoạch TNN, quy hoạch tổng hợp lưu vực sông; xây dựng kế hoạch sử dụng nước nhằm chủ động nguồn nước đối với các ngành, lĩnh vực. Đồng thời, cải thiện, phục hồi các dòng sông bị suy thoái, bảo vệ nguồn nước. Phục hồi nguồn thủy sinh, các hệ sinh thái ngập nước quan trọng, đảm bảo an ninh nước. Kiểm soát, giám sát chặt chẽ các chất thải ra môi trường, đặc biệt là nước thải xả vào nguồn nước phải đạt quy chuẩn chất lượng nước phù hợp với chức năng của nguồn nước.
Thứ ba, nâng cao năng lực ứng phó tác động biến đổi khí hậu và các rủi ro khác liên quan đến TNN: xây dựng và duy trì hệ thống cảnh báo, dự báo lũ, lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng và các tác hại khác do nước gây ra trên phạm vi cả nước; nâng cấp, bổ sung các trạm quan trắc khí tượng thủy văn, TNN; xây dựng, củng cố, nâng cấp hệ thống phòng, chống lũ quét, sạt lở đất theo tần suất thiết kế, hệ thống đê sông, đê biển đáp ứng được yêu cầu chống chịu mưa, lũ lớn, dài ngày kết hợp với các giải pháp khác, chủ động ứng phó hiệu quả với các tình huống thiên tai bất lợi; tăng cường khả năng trữ lũ, giữ nước ngọt nhằm khắc phục hiệu quả tình trạng hạn hán thiếu nước vào mùa khô của các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, vùng sâu, vùng xa và các hải đảo. Hoàn thành việc xây dựng bản đồ ngập lụt hạ du đối với các hồ chứa.
Thứ tư, xây dựng hệ thống chỉ tiêu theo dõi, đánh giá an ninh nguồn nước quốc gia đảm bảo các bộ, ngành, địa phương cập nhật các chỉ tiêu an ninh nguồn nước thuộc phạm vi quản lý trên nền tảng công nghệ, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến theo chuẩn mực chung của quốc tế và đáp ứng mục tiêu xây dựng Chính phủ số. Chủ động kế hoạch sử dụng nước trên sông xuyên biên giới trên cơ sở giám sát, hợp tác với các quốc gia có chung nguồn nước trong việc chia sẻ thông tin, số liệu quan trắc, vận hành khai thác nguồn nước; thúc đẩy, tăng cường kết nối Ủy hội sông Mê Công quốc tế với các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mê Công nhằm thu hút sự ủng hộ từ bên ngoài trong nỗ lực đảm bảo phát triển bền vững, tăng cường trách nhiệm trong sử dụng nguồn nước.
Mặt khác, các cấp trung ương và địa phương cần tăng cường đầu tư, nâng cấp, nâng cao hiệu quả sử dụng nước, chỉ tiêu đảm bảo an ninh TNN, chủ động nguồn nước cho các ngành, lĩnh vực: sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, giao thông và các ngành sử dụng nước khác. Tăng cường đầu tư, nâng cấp, nâng cao chỉ tiêu đảm bảo an ninh tài nguyên nước trong thu gom, xử lý nước thải và thoát nước; tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ; vận hành hệ thống chỉ tiêu theo dõi, đánh giá chính xác an ninh TNN quốc gia.
Đại tá, PGS. TS. KHQS TRẦN NAM CHUÂN
Nguyên Cán bộ Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 23 (Kỳ 1 tháng 12) năm 2024