
Tại buổi họp báo, Bộ đã giới thiệu và cung cấp tới phóng viên các báo chí các chuyên đề như: Kết quả công tác nổi bật Quý I và Chương trình công tác Quý II /2021 của Bộ TN&MT; mục tiêu, chiến lược, chương trình hành động, kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm phát triển KT-XH giai đoạn 2021 - 2025 của ngành TN&MT; quản lý khoáng sản tại các khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia; quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản TNN đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; chương trình ban hành văn bản QPPL năm 2021 của Bộ TN&MT.
Phát biểu khai mạc cuộc họp báo, Thứ trưởng Lê Công Thành cảm ơn sự đồng hành thường xuyên, hiệu quả của các phóng viên, cơ quan thông tấn, báo chí trong việc phối hợp với Bộ và các cơ quan, tổ chức có liên quan để thông tin, tuyên truyền với các dấu ấn đậm nét, kịp thời, đa dạng chủ đề, nội dung liên quan đến lĩnh vực TN&MT. Thứ trưởng cho biết, năm 2021 là năm đầu thực kế hoạch giai đoạn 2021-2025 của Ngành với các mục tiêu, chiến lược, chương trình hành động, kế hoạch nhiệm vụ trọng tâm phát triển KT-XH. Ngành sẽ tập trung xây dựng hoàn thiện đồng bộ các chủ trương, cơ chế, chính sách, pháp luật, quy hoạch, chiến lược, đề án về quản lý TN&MT ứng phó với BĐKH và đặt biệt là việc xây dựng các nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết Luật BVMT sửa đổi năm 2020, tiến hành đánh giá Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI và tổng kết, sửa đổi Luật Đất đai năm 2013. Đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số, cải cách hành chính từ trung ương đến địa phương, tăng cường nguồn lực từ tài nguyên cho phát triển đất nước.
Quý II, Bộ TN&MT tiếp tục tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; bám sát tình hình thực tiễn và tập trung vào một số nhiệm vụ cụ thể, như: Triển khai Chiến lược tổng thể tài nguyên số về TN&MT; đưa vào vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia; xây dựng cơ sở dữ liệu TN&MT, dữ liệu nền địa lý quốc gia, dữ liệu lớn như quan trắc, dự báo, dữ liệu viễn thám; chủ động mặt bằng đất đai cho triển khai các dự án đầu tư phát triển KT-XH; thực hiện liên thông thủ tục, cung cấp dịch vụ công về cấp giấy đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất trên cổng dịch vụ công quốc gia; thực hiện kiểm kê TNN quốc gia và Quy hoạch điều tra cơ bản TNN,…
Theo Báo cáo của Bộ TN&MT, Kế hoạch 5 năm 2021 - 2025 của ngành TN&MT bám sát 4 mục tiêu là: Xây dựng hoàn thiện đồng bộ các chủ trương, chính sách, pháp luật, quy hoạch, chiến lược về quản lý TN&MT ứng phó với BĐKH. Nâng cao hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng hợp lý các nguồn lực tài nguyên cho phát triển KT-XH, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Từng bước chủ động ứng phó với BĐKH; bảo đảm chất lượng môi trường sống và cân bằng sinh thái, phấn đấu đạt các chỉ tiêu về môi trường tương đương với mức hiện nay của các nước công nghiệp phát triển trong khu vực. Điều tra, đánh giá tiềm năng, giá trị của các nguồn tài nguyên quan trọng, hoàn thành cơ bản các hạ tầng phục vụ quản lý thông minh, từng bước hiện đại hóa Ngành, thực hiện thành công việc chuyển đổi số, xây dựng dựng chính phủ điện tử. Về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, Bộ TN&MT đề ra 8 vấn đề gồm: Cơ chế, chính sách; xây dựng chiến lược, quy hoạch về TN&MT; nâng cao hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng các nguồn lực; tạo chuyển biến căn bản trong công tác quản lý, hành động BVMT, xây dựng nền kinh tế tuần hoàn; công tác KTTV và thích ứng với BĐKH; tập trung xây dựng các cơ sở dữ liệu TN&MT, sớm hoàn thành mục tiêu chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử, quản lý thông minh; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Trong đó, về cơ chế, chính sách: Xây dựng đồng bộ các chủ trương, chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch tạo đột phá để quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn tài nguyên cho phát triển, giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế và BVMT, chủ động ứng phó với BĐKH.
Cụ thể, Bộ hoàn thành xây dựng, trình ban hành các văn bản thực thi Luật BVMT năm 2020. Tập trung tổng kết Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai, hoàn thành sửa đổi Luật Đất đai năm 2013, các văn bản dưới Luật. Sơ kết việc thi hành và nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật TN&MT Biển và Hải đảo. Đồng thời, thiết lập hàng rào kỹ thuật quy chuẩn, tiêu chuẩn tiệm cận các nước tiên tiến trong khu vực, chủ động phòng ngừa các nguy cơ ô nhiễm trong tiến trình hội nhập; xây dựng các giải pháp chiến lược để chủ động ứng phó với BĐKH phù hợp với điều kiện của từng vùng. Tập trung thanh tra, kiểm tra theo diện và theo chuyên đề để xử lý nghiêm các vi phạm trong quản lý, sử dụng TN&MT, đặc biệt, đối với đất đai, khoáng sản và BVMT. Kiểm soát chặt chẽ và công khai, minh bạch trong việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, bảo đảm quyền lợi hợp pháp, hoạt động sản xuất và đời sống của người có đất thu hồi; tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động khoáng sản, đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
Tại buổi họp báo, đại diện một số cơ quan trực thuộc Bộ TN&MT đã trả lời câu hỏi của các phóng viên liên quan đến các vấn đề: Tình hình quản lý đất đai tại các địa phương, các điểm nghẽn trong cơ chế quản lý, kiểm kê đất; quy hoạch lưu vực sông liên tỉnh; các dự án lấn biển,… đang được dư luận quan tâm. Liên quan đến tình hình “sốt đất” được dư luận đặc biệt quan tâm trong thời gian gần đây, ông Mai Văn Phấn, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai cho biết, sau khi có dư luận về tình trạng này, Tổng cục đã tham mưu lãnh đạo Bộ có văn bản gửi UBND các tỉnh, thành phố nhằm chấn chỉnh tình trạng “sốt đất”, trong đó, có yêu cầu các địa phương phải công khai thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá đất. Hiện nay, Tổng cục Quản lý đất đai đã tiếp nhận báo cáo của một số địa phương, Bộ đang chờ các địa phương khác gửi báo cáo để tổng hợp phân tích nguyên nhân để đưa ra các giải pháp phù hợp.
Liên quan đến công tác quản lý TNN, ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý TNN cho biết, trong thời gian qua, công tác điều tra, đánh giá TNN dưới đất ở mức độ sơ bộ trên phạm vi toàn quốc (tỷ lệ 1:200.000); điều tra, đánh giá chi tiết nước dưới đất còn rất hạn chế, tỷ lệ 1:100.000 thực hiện khoảng 6,0%, tỷ lệ 1: 50.000 thực hiện khoảng 5%, điều tra, đánh giá chi tiết (tỷ lệ 1:25.000) gắn với việc tìm kiếm, phát hiện nguồn nước dưới đất để cung cấp nước sinh hoạt thực hiện được 5% cho một số vùng đô thị lớn, đảo, vùng núi cao, khan hiếm thiếu nước; điều tra, đánh giá TNN mặt thực hiện ở mức tổng quan. Ngành TN&MT đã đầu tư và đưa vào vận hành 23 trạm TNN mặt độc lập, 23 trạm thủy văn lồng ghép trạm TNN mặt, 412 điểm với 805 giếng quan trắc nước dưới đất và thực hiện một số hoạt động điều tra cơ bản phục vụ giải quyết các vấn đề cấp bách, phát sinh trong công tác quản lý TNN.
PHƯƠNG ĐÔNG