
Cấp xã thực hiện trách nhiệm gì trong quản lý đất đai?
Chức năng quản lý đất đai của UBND cấp xã được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật: Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, LĐĐ 2013, Luật xử lý vi phạm hành chính (VPHC) năm 2012. Ngoài ra, chức năng này còn được quy định tại các văn bản dưới luật như: Nghị định số 43/2014/NĐ-CP (Nghị định 43) quy định chi tiết thi hành mộ số điều của Luật Đất đai năm 2013 (LĐĐ 2013); Nghị định số 91/2019/NĐ-CP về xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai.
Có thể thấy, UBND cấp xã có trách nhiệm và thẩm quyền như sau:
Trách nhiệm xác định nguồn gốc đất đai, tình trạng đất đai của UBND cấp xã
Xác định nguồn gốc đất đai, tình trạng đất đai của UBND cấp xã: Điều 105, LĐĐ 2013 quy định thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN.QSDĐ), quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất thuộc về UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện. Tuy nhiên, trong quá trình cấp GCN cho công dân, UBND cấp xã có trách nhiệm thực hiện một số công đoạn trong thủ tục hành chính (TTHC).
Thứ nhất, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có thể nộp hồ sơ tại UBND cấp xã. UBND cấp xã có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả. Đối với trường hợp đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất; cấp đổi, cấp lại GCN.QSDĐ, UBND cấp xã có trách nhiệm chuyển hồ sơ đến Văn phòng Đăng ký đất đai (khoản 2, Điều 60, Nghị định 43).
Thứ hai, trong thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp GCN.QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, UBND cấp xã có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và thực hiện các công việc như sau: (i) UBND cấp xã thực hiện việc xác nhận hiện trạng SDĐ so với nội dung kê khai đăng ký đối với trường hợp đăng ký đất đai; trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của LĐĐ 2013 và Điều 18 của Nghị định số 43 thì xác nhận nguồn gốc và thời điểm SDĐ, tình trạng tranh chấp SDĐ, sự phù hợp với quy hoạch. (ii) Đối với trường hợp đăng ký tài sản gắn liền với đất, UBND cấp xã có trách nhiệm xác nhận hiện trạng tài sản gắn liền với đất so với nội dung kê khai đăng ký; trường hợp không có giấy tờ quy định tại các Điều 31, 32, 33 và 34 của Nghị định 43 thì xác nhận tình trạng tranh chấp quyền sở hữu tài sản; đối với nhà ở, công trình xây dựng thì xác nhận thời điểm tạo lập tài sản, thuộc hay không thuộc trường hợp phải cấp phép xây dựng, sự phù hợp với quy hoạch được duyệt; xác nhận sơ đồ nhà ở hoặc công trình xây dựng nếu chưa có xác nhận của tổ chức có tư cách pháp nhân về hoạt động xây dựng hoặc hoạt động đo đạc bản đồ. (iii) Sau khi tiến hành xác minh hiện trạng SDĐ, UBND cấp xã có trách nhiệm niêm yết công khai kết quả kiểm tra hồ sơ, xác nhận hiện trạng, tình trạng tranh chấp, nguồn gốc và thời điểm SDĐ tại trụ sở UBND cấp xã và khu dân cư nơi có đất, tài sản gắn liền với đất. Đồng thời, xem xét giải quyết các ý kiến phản ánh về nội dung công khai và gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai. (khoản 2 Điều 70, Nghị định 43).
Quản lý quỹ đất công ích của UBND cấp xã: Đất công ích là quỹ đất mà tùy từng địa phương tạo lập nhằm mục đích KT-XH phục vụ lợi ích công cộng của địa phương. Đối với quỹ đất công ích, UBND cấp xã có trách nhiệm trình lập quỹ đất công ích để trình HĐND duyệt. UBND cấp xã có trách nhiệm quản lý, SDĐ công ích đúng mục đích, QH, KHSDĐ đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Điều 132, LĐĐ 2013 quy định, đất công ích do UBND cấp xã quản lý phải là đất nông nghiệp không quá 5% tổng diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản để phục vụ cho các nhu cầu công ích của địa phương. UBND cấp xã chỉ được sử dụng quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn để sử dụng vào các mục đích công cộng của địa phương bao gồm: Xây dựng các công trình công cộng của xã, phường, thị trấn như công trình văn hóa, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí công cộng, y tế, giáo dục, chợ, nghĩa trang, nghĩa địa. Bồi thường cho người có đất được sử dụng để xây dựng các công trình công cộng quy định tại LĐĐ 2013; Xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương (khoản 2, Điều 132, LĐĐ 2013).
Đối với diện tích đất chưa sử dụng vào các mục đích trên, UBND cấp xã có thể cho hộ gia đình, cá nhân tại địa phương thuê để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản.
Quản lý đất chưa sử dụng của UBND cấp xã: Đất chưa sử dụng là nhóm đất thứ ba trong phân loại đất đai của LĐĐ 2013. Đất chưa sử dụng là đất chưa xác định được mục đích sử dụng, bao gồm: Đất bằng chưa sử dụng, đất đồi núi chưa sử dụng, núi đá không có rừng cây. Đối với diện tích đất chưa sử dụng, UBND cấp xã có trách nhiệm quản lý, bảo vệ quỹ đất chưa sử dụng trên địa bàn và đăng ký vào hồ sơ địa chính (HSĐC). Đồng thời, hàng năm, UBND cấp xã có trách nhiệm báo cáo UBND cấp huyện về tình hình quản lý, khai thác quỹ đất chưa sử dụng (Điều 164, LĐĐ 2013).
Trách nhiệm quản lý HSĐC của UBND cấp xã: HSĐC là tập hợp tài liệu thể hiện thông tin chi tiết về hiện trạng và tình trạng pháp lý của việc quản lý, sử dụng các thửa đất, tài sản gắn liền với đất để phục vụ yêu cầu QLNN về đất đai và nhu cầu thông tin của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Trong quản lý HSĐC, UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp cùng cơ quan chuyên môn thiết lập, quản lý HSĐC. Đồng thời, UBND cấp xã có trách nhiệm sử dụng, bảo quản, khai thác thông tin đất đai địa chính theo quy định của pháp luật.
Hòa giải tranh chấp đất đai (TCĐĐ) của UBND cấp xã: TCĐĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người SDĐ giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. TCĐĐ có nhiều loại bao gồm: Tranh chấp về chủ thể có QSDĐ, tranh chấp liên quan đến các giao dịch về QSDĐ, tranh chấp về tài sản gắn liền với QSDĐ. Đối với TCĐĐ, khoản 1, Điều 202, LĐĐ 2013 quy định: Nhà nước khuyến khích các bên TCĐĐ tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp hòa giải thông qua hòa giải cơ sở. Như vậy, đối với các TCĐĐ mà các bên không thể tự hòa giải được hoặc đã hòa giải nhưng các bên chưa đồng ý, UBND cấp có trách nhiệm tổ chức hòa giải nếu các bên tranh chấp có đơn yêu cầu.
Xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai của UBND cấp xã: Vi phạm pháp luật (VPPL) đất đai là hành vi trái pháp luật do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện, có lỗi và xâm hại đến quan hệ đất đai được pháp luật bảo vệ. Người có hành vi VPPL về đất đai thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Pháp luật đất đai quy định về thẩm quyền xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai thuộc về chủ tịch UBND cấp xã. UBND xã không có thẩm quyền xử phạt. Thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai của chủ tịch UBND cấp xã được quy định tại Nghị định số 91/2019/NĐ-CP về xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai.
Khoản 1, Điều 38, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy về thẩm quyền của chủ tịch UBND các cấp trong việc xử phạt VPHC như sau: “Chủ tịch UBND cấp xã có quyền: (a) Phạt cảnh cáo; (b) Phạt tiền đến 5.000.000 đồng; (c) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc SDĐ; (d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm”.
Như vậy, phụ thuộc vào mức phạt đối với hành vi VPHC lĩnh vực đất đai để xem xét có thuộc thẩm quyền xử phạt của chủ tịch UBND cấp xã. Ví dụ, đối với hành vi lấn chiếm đất chưa sử dụng tại khu vực nông thôn, chủ tịch UBND cấp xã có thẩm quyền xử phạt đối với diện tích đất lấn chiếm dưới 0,1 ha. Do hình thức và mức xử phạt đối với hành vi lấn chiếm đất: Từ 2.000.000 đến 3.000.000 (dưới 0,05 ha) và từ 3.000.000 đến 5.000.000 đồng (dưới 0,1 ha).
Giải pháp tăng cường trách nhiệm, hiệu quả trong quản lý nhà nước về đất đai ở cấp xã
Có thể thấy trong những năm gần đây, QLNN về đất đai của cấp xã đạt được những kết quả nhất định: Cơ bản thực hiện được quy hoạch, kế hoạch đất đã được phê duyệt; công tác quản lý HSĐC đã đi vào nề nếp, các hoạt động đánh giá hiện trạng SDĐ, thống kê, kiểm kê đất đai được đảm bảo hơn; hồ sơ về đất đai của người dân được thực hiện theo TTHC của cơ chế một cửa, một cửa liên thông bước đầu đáp ứng yêu cầu trong hoạt động QLNN về đất đai hướng tới đảm bảo quản lý và SDĐ hiệu quả, tiết kiệm cũng như góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích của các tổ chức, công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới của địa phương, đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, QLNN về đất đai của cấp xã còn tồn tại những hạn chế nhất định: Vẫn để xảy ra những hành vi VPPL, như: SDĐ không đúng mục đích, xây dựng công trình trên đất nông nghiệp, có hành vi lấn chiếm đất; tình trạng tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng ở các địa phương, chính quyền cơ sở một số nơi chưa làm tốt công tác hòa giải tranh chấp đất đai, thực hiện QH, KHSDĐ cấp trên phê duyệt có nơi chưa làm tốt; một số chính quyền địa phương cơ sở còn có lúc buông lỏng quản lý, có những yếu kém nhất định về công tác chỉ đạo, điều hành. Những hạn chế này xuất phát từ một số nguyên nhân: Người SDĐ chưa chú trọng quan tâm tìm hiểu các quy định pháp luật về đất đai để bảo vệ quyền lợi cho mình. Cũng như chưa thực hiện đúng, đủ các nghĩa vụ của người SDĐ. Việc tuyên truyền các quy định của pháp luật về đất đai đến nhân dân trong địa bàn phường chưa chủ động, tích cực, chất lượng các buổi tuyên truyền chưa cao. Người dân ít quan tâm tới công tác tuyên truyền trong lĩnh vực đất đai, chỉ khi nào quyền lợi của mình bị ảnh hưởng họ mới có ý kiến. Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực đất đai thường xuyên thay đổi. Giá đền bù QSDĐ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thường thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường. Vì vậy công tác thu hồi, bồi thường cũng có những khó khăn nhất định. Trình độ, năng lực của cán bộ, công chức địa chính cấp xã một số nơi chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác QLNN về đất đai của UBND cấp xã, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. Cũng như sự giám sát của HĐND.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở TN&MT, cấp huyện, phòng TN&MT cấp huyện cần có sự kiểm tra thường xuyên theo kế hoạch kết hợp kiểm tra đột xuất đối với hoạt động QLNN về đất đai của UBND cấp xã, nếu thấy sự thiếu sót, buông lỏng trong công tác này cần có sự chấn chỉnh kịp thời, cũng như xử lý nghiêm những trường hợp VPPL trong công tác quản lý đất đai ở cơ sở. Bên cạnh đó, HĐND cấp xã cũng cần đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động giám sát nói chung, trong đó có hoạt động giám sát đối với công tác quản lý đất đai của UBND cùng cấp.
Hai là, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cho công chức địa chính cấp xã. Hằng năm, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Bộ TN&MT, UBND cấp tỉnh, Sở TN&MT cần tăng cường các đợt tập huấn về kiến thức pháp luật đất đai, chuyên môn nghiệp vụ, cũng như nâng cao trình độ tin học để công chức địa chính các xã, phường, thị trấn có thể khai thác ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ tốt cho công việc. Chú trọng việc trang bị kỹ năng về giao tiếp hành chính, kỹ năng xử lý, giải quyết các tình huống phát sinh trong quá trình thực thi công vụ.
Ba là, chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã phải không ngừng học tập, thường xuyên nghiên cứu, nắm chắc các quy định của pháp luật đất đai, cũng như kỹ năng xử lý các tình huống phát sinh trong lĩnh vực đất đai. Đồng thời, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn trong công tác QLNN về đất đai,
Bốn là, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thực hiện việc tuyển dụng đối với công chức địa chính cấp xã, tạo cho họ yên tâm và tâm huyết với công việc được giao. Công chức địa chính tại cấp xã nên bố trí cố định trong thời gian dài để họ có thể bám địa bàn, nắm rõ tình hình sử dụng đất của các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, tình trạng tranh chấp, nguồn gốc của các thửa đai.
Năm là, tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí hoạt động hằng năm cho lĩnh vực quản lý đất đai, trang bị máy móc, tủ đựng tài liệu - HSĐC. UBND cấp xã cần đề xuất những khó khăn hoặc kiến nghị cụ thể trong quá trình quản lý để cấp trên kịp thời hướng dẫn, giải quyết đảm bảo cho việc hoàn thành nhiệm vụ đồng thời phục vụ nhân dân đạt kết quả cao.
Sáu là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đất đai đến từng người dân trong địa bàn xã, phường, thị trấn đi đôi với việc thiết lập cơ chế hỗ trợ pháp lý cho người có QSDĐ để họ bảo vệ được quyền lợi của mình và chấp hành đầy đủ nghĩa vụ của người SDĐ. Đồng thời, xử lý nghiêm những hành vi VPPL đất đai nhằm đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa. Tránh tình trạng còn cả nể, có những hành vi vi phạm trong quá trình sử dụng đất nhưng cán bộ, công chức cấp xã không thực hiện lập biên bản và không xử lý theo quy định của pháp luật.
ĐĂNG TUYÊN