
Ông Châu Trần Vĩnh – Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước trình bày tóm tắt dự thảo Luật Tài nguyên nước
Tiếp thu, bổ sung nhiều ý kiến góp ý
Tại Hội thảo, Cục trưởng Cục Quản lý TNN Châu Trần Vĩnh cho biết, hiện nay dự thảo Luật TNN (sửa đổi) có kết cấu 10 chương, 86 điều. So với Luật TNN năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 19 điều; sửa đổi, bổ sung 55 điều; bổ sung mới 13 điều và bãi bỏ 5 điều). Đối chiếu với Dự thảo Luật tháng 3/2023, Dự thảo Luật tháng 9/2023 đã tiếp thu, bổ sung nhiều kiến góp ý của các cơ quan, hội, ngành, các chuyên gia, nhà khoa học và nhân dân vào Dự thảo Luật.
Dự thảo Luật tập trung vào 4 nhóm chính sách đã được Quốc hội thông qua: Bảo đảm an ninh nguồn nước; xã hội hóa ngành nước; kinh tế TNN; bảo vệ TNN, phòng, chống tác hại do nước gây ra và sửa đổi, bổ sung một số chính sách khác.
Cụ thể, Dự thảo Luật đã bổ sung các điểm mới căn bản như: Các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước. Trong đó, có quy định cụ thể về điều hòa, phân phối TNN; quy định về việc đảm bảo duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, ngưỡng khai thác nước dưới đất; bổ sung các quy định về ưu tiên đầu tư phát triển, tích trữ, phục hồi nguồn nước; bổ sung quy định về việc xác định trong quy hoạch các nguồn nước phải lập kế hoạch chi tiết thực hiện việc điều hòa, phân bổ, bảo vệ và phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.
Dự thảo Luật lần này cũng đã sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo vệ TNN: Quy định về phân vùng chức năng nguồn nước; bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt; bổ sung quy định phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; quy định về phòng, chống sạt, lở lòng bờ, bãi sông, hồ; quy định cụ thể về việc lập, công bố danh mục hồ, ao, đầm phá không được san lấp,... Trong đó, đã duy định rõ chức năng nguồn nước là một trong các căn cứ để xem xét việc điều hoà, phân phối TNN; lựa chọn các giải pháp bảo vệ nguồn nước, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; xem xét, quyết định việc chấp thuận, phê duyệt, cấp phép cho các dự án có hoạt động xả nước thải vào nguồn nước theo quy định của pháp luật; quy định cụ thể các chức năng cơ bản của nguồn nước; tổ chức, cá nhân xả nước thải vào nguồn nước phải phù hợp với chức năng nguồn nước và các quy định của pháp luật về BVMT.
Bên cạnh các nội dung nêu trên, Dự thảo Luật cũng sửa đổi, bổ sung các quy định về khai thác, sử dụng nước; bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực TNN; bổ sung các quy định nhằm chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế; bổ sung các quy định về trách nhiệm của các bộ, ngành. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm của Bộ TN&MT, các bộ, ngành địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng kịch bản nguồn nước, phương án điều hòa, phân phối TNN và việc thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng. Đồng thời, bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý đầu tư, xây dựng, vận hành công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương; giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, lỗ hổng trong các luật.
Huy động trí tuệ, tâm huyết của các chuyên gia, nhà khoa học góp phần hoàn thiện dự thảo Luật
Phó Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT của Quốc hội Nguyễn Thị Lệ Thủy cho biết, để phục vụ việc thẩm tra, Thường trực Ủy ban KH, CN&MT đã tổ chức các đợt khảo sát thực tế, hội thảo, tọa đàm tham vấn chuyên gia, nhà khoa học; lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan và Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội về nội dung dự án Luật TNN (sửa đổi). Qua tổng hợp các ý kiến góp ý cho thấy, việc sửa đổi Luật TNN là cần thiết, giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý TNN trong bối cảnh cần tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước, khắc phục những bất cập, tồn tại trong công tác quản lý TNN và yêu cầu hội nhập quốc tế trong quản lý TNN.
Nội dung dự án Luật TNN (sửa đổi) đã thể chế hóa tương đối đầy đủ quan điểm, định hướng đổi mới của Đảng và Nhà nước về quản lý TNN, đặc biệt là Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, phòng chống ô nhiễm nước và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt; đổi mới và hoàn thiện hành lang pháp lý về quản lý TNN; khai thác, sử dụng hiệu quả TNN theo hướng quản trị nước, đẩy mạnh xã hội hoá ngành nước và áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý TNN.
Dự án Luật đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa Luật TNN năm 2012, tổng kết thi hành Luật TNN và rà soát, đối chiếu với các luật có liên quan. Do đó, về cơ bản các quy định của Luật đảm bảo tính khả thi.
Ông Nguyễn Văn Vẻ, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam cho rằng, tại Khoản 5, Điều 35: Phòng, chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước “Nước thải xả vào nguồn nước phải đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng nước thải, phù hợp với chức năng nguồn nước và sức chịu tải của môi trường nước tiếp nhận”. Do đó, đề nghị ghi rõ và phân loại các nguồn thải để làm căn cứ xác định các nguồn xả thải làm cơ sở xây dựng chính sách quản lý và phù hợp với Khoản 3, Điều 37 gồm: Nước thải khu công công nghệp, khu chế xuất; cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; làng nghề; khu đô thị; đơn vị hành chính cấp xã, cấp huyện (căn cứ quy mô dân số),...
Bên cạnh đó, tại Điều 6: Sửa đổi khoản 2, Điều 7 của Dự thảo Luật về truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp luật về TNN, kiến nghị sửa thành: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân tham gia hoạt động bảo vệ TNN, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và chấp hành pháp luật về TNN; giám sát, phản biện xã hội việc bảo vệ, khai thác, sử dụng TNN, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra”.
Theo TS. Hoàng Văn Khoa - Phó Chủ tịch Tổng hội Địa chất Việt Nam: Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1): Đã đề xuất không đưa “nước dưới đất dưới đáy biển và,... thềm lục địa...” không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Tuy nhiên, theo khái niệm nước dưới đất vẫn là TNN, cần xem xét giữ lại ở Luật này, trước mắt cần quản lý, phục vụ cho công tác nghiên cứu, điều tra và hợp tác quốc tế,... Xem xét chồng lấn về quản lý giữa Luật Thủy lợi, Luật Khí tượng thủy văn. Đặc biệt “nước mưa”, “nước mặt”, cũng là đối tượng quản lý của các luật khác.
Về chính sách của Nhà nước về TNN (Điều 4): Các chính sách đề ra cần cụ thể hóa bằng các quy định trong Luật. Tuy nhiên, trong dự thảo nhiều nội dung chưa “luật hóa”. Ví dụ: (khoản 2) Ưu tiên đầu tư tìm kiếm, thăm dò, khai thác nguồn nước, có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư khai thác nước để cấp nước sinh hoạt, sản xuất cho người dân các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện KT-XH khó khăn, vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn khan hiếm nước ngọt; tạo điều kiện tiếp cận nước sinh hoạt cho người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và các đối tượng dễ bị tổn thương khác hoặc (khoản 4): Khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện các hoạt động điều tra cơ bản; bảo vệ, phát triển nguồn nước, nguồn sinh thuỷ; phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; điều hoà, phân phối TNN; phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây. Để cụ thể hóa cần có quy định cơ chế khuyến khích, quyền lợi của tổ chức cá nhân tham gia thực hiện,...
Về thăm dò, khai thác nước dưới đất: Tại khoản 4, 5 Điều 52 quy định để được cấp phép khai thác nước dưới đất phải thực hiện thăm dò, đánh giá trữ lượng, chất lượng nước. Tuy nhiên, chưa quy định về nội dung đề án thăm dò, hồ sơ cấp phép, thẩm định phê duyệt kết quả.
TRẦN THANH
Cục Quản lý tài nguyên nước
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 10 năm 2023)