Thừa Thiên - Huế: Nước sạch “vươn tới” vùng cao Nam Đông

Thứ ba, 19/11/2024, 21:59 (GMT+7)
logo Nam Đông vốn là huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên - Huế có địa hình phức tạp, việc đưa nguồn nước sạch đến với bà con nơi đây trở thành bài toán nan giải trong suốt nhiều năm. Song với sự nỗ lực của chính quyền địa phương các cấp, sự chung sức, đồng lòng của các đoàn thể, người dân, giờ đây diện mạo huyện miền núi Nam Đông đã có nhiều đổi thay, niềm khao khát nước sạch đã không còn là giấc mơ.

Khao khát nước sạch

Nam Đông là một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên - Huế cách thành phố Huế khoảng 50 km về phía Tây Nam, được tái lập vào tháng 10 năm 1990 với tổng diện tự nhiên 647,78 km2, chiếm 12,87% diện tích tự nhiên toàn tỉnh Thừa - Thiên Huế. Đây là huyện có địa hình rừng núi có nhiều hang động, bị chia cắt bởi hệ thống núi non và khe suối. Huyện vùng cao Nam Đông được mệnh danh là “chảo lửa”, bởi nhiệt độ mùa nắng nóng khu vực này luôn chênh so với các địa phương khác từ 1-2 độ. Vào mùa hè, người dân nơi đây thường thiếu nước sạch sinh hoạt, nhất là một bộ phận dân cư ở các xã vùng sâu, vùng xa. Do nhà dân ở phân tán, nằm xa trung tâm nên đường ống nước chưa “vươn” tới.


Đường vào trung tâm huyện Nam Đông đã nhiều đổi thay

Những năm trước, tại dòng suối A Rơng chảy qua xã Thượng Long (huyện Nam Đông), mỗi ngày mỗi giờ, hàng trăm người xách can nhựa đến suối lấy nước. Nhiều trẻ em trong làng cũng vây quanh để tắm rửa, giặt giũ, nô đùa. Điều đáng nói, cũng chính ở con suối này, hằng ngày trâu bò đến tắm, uống nước...

Ông Nguyễn Văn Xom, xã Thượng Long, huyện Nam Đông kể lại: Bà con ở đây phải dậy thật sớm lên các khe, suối mới lấy được ít nước về dùng, chứ đi muộn là trâu, bò tắm làm đục suối không dùng được. Biết là ô nhiễm những phải bám víu qua ngày, nếu không lấy mà dùng thì,... chết khát.

Không chỉ ở xã Thượng Long, đồng bào dân tộc ở các xã vùng cao như Thượng Quảng, Hương Hữu, Hương Giang... lâu nay sử dụng nước khe, suối bị ô nhiễm, giếng đào chua phèn là điều gần như bắt buộc. Việc hạn chế nguồn nước nên trong sinh hoạt, nước dùng trở nên nhỏ giọt, cực ký tiết kiệm đến mức từng lượng nước phải sử dụng nhiều lượt. Còn mỗi khi các dòng suối, khe cạn nước, người dân khó khăn vô cùng, cuộc sống bị đảo lộn, ngưng trệ.

Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn nước ô nhiễm trở thành mối nguy cơ đe dọa đến sức khỏe, người già, trẻ em và phụ nữ cũng mắc các bệnh da liễu, tiêu hóa và đường ruột. “Khao khát” có nước sạch có lẽ đến đứa trẻ học mẫu giáo ở đây cũng đã có trong tiềm thức.

Ông Dương Sang, xã Hương Phú, huyện Nam Đông cho biết, trong tiến trình xây dựng nông thôn mới, chính quyền địa phương luôn chú trọng đầu tư để đảm bảo tiêu chí nước sạch trên địa bàn. Tuy nhiên, tại thôn Phú Hòa hiện nay vẫn còn 22 hộ dân ở khu vực xa khu dân cư vẫn chưa có nước sạch để sử dụng. Để có nước hợp vệ sinh, các hộ dân chủ yếu dùng nước giếng khoan, giếng đào. Nguyên nhân, khu vực này nằm xa đường ống chính, suất đầu tư lớn, trong điều kiện người dân còn khó khăn nên không có nước sạch dùng.

Vừa mới đầu tư cho 14 hộ dân có hệ thống nước sạch sử dụng từ nguồn vốn hỗ trợ cho hộ nghèo của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xã Thượng Nhật đến nay vẫn còn 37 hộ dân thiếu nước sạch.

Chủ trương xây nhà máy nước sạch tại vùng cao Nam Đông của tỉnh bằng nguồn vốn xã hội hóa cũng đã có từ lâu, thế nhưng, không chủ đầu tư nào quan tâm. Theo lãnh đạo UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế cho biết, nhiều năm qua, người dân vùng cao trên địa bàn huyện Nam Đông phải đối mặt với tình trạng thiếu nước sạch sinh hoạt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, đời sống. Trước thực trạng đó, tỉnh đã quyết định đầu tư dự án Nhà máy nước sạch Thượng Long và mạng lưới cấp nước cho các xã Thượng Long, Thượng Quảng, Hương Giang… với mục tiêu xây dựng hệ thống cấp nước bền vững, đảm bảo cung cấp nước sạch, an toàn cho 95% dân số khu vực các xã nói trên, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng sống người dân.

Tuy nhiên, niềm khao khát có nhà máy nước sạch ở huyện miền núi Nam Đông gặp không ít thách thức rào cản, như nguồn vốn ngân sách bố trí chậm, giá cả vật tư đầu vào biến động; địa hình đồi núi hiểm trở gây khó khăn trong công tác vận chuyển vật liệu. Ngoài ra, bão lũ liên tục vào cuối năm 2020 và dịch bệnh covid - 19 diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến tiến độ công trình. Khoảng thời gian này, lãnh đạo tỉnh đã theo sát dự án và tâm tư cũng như bà con là mong mỏi nhà máy sớm đi vào hoạt động.


Nhà máy nước Thượng Long đi vào hoạt động, góp phần giải quyết nhu cầu nước sạch cho người dân vùng cao Nam Đông

Giải cơn khát nước sạch

Hơn một năm qua, đời sống người dân Nam Đông đã đổi thay trông thấy, khi Nhà máy nước sạch Thượng Long được khánh thành, đi vào hoạt động. Có mặt ở xã Thượng Long, không khí ở đây nhộn nhịp từ tinh mơ. Không còn cảnh phải dậy thật sớm mỗi ngày, lên các khe, suối cách nhà hơn 3 km mới lấy được ít nước về dự trữ và dùng lâu dài như trước, giờ đây, ông Hồ Văn Mão cùng hàng xóm đã sử dụng nước sạch từ nhà máy nước rất gần nhà.

“Cả xóm có hơn 30 hộ, có 2 cái giếng nhưng tới mùa nắng là cạn đáy. Lâu nay chúng tôi phải đi múc nước suối, buổi sáng hơn cả tiếng đồng hồ đi chưa tới nơi nữa, rất cực khổ, vất vả cho bà con. Nay có nước sạch rồi, vừa an toàn cho sức khỏe, vừa đỡ công sức, cảm ơn các cấp đã tạo điều kiện....”, ông Mão chia sẻ.

Tại căn nhà của vợ chồng anh Trần Văn Kim và chị Hồ Thị Ban (thôn Ta Rinh, xã Thượng Nhật) rộn ràng tiếng trẻ nhỏ nô đùa bên dòng nước sạch mát rượi. Vừa giặt áo quần vừa cười nói vui vẻ, chị Ban cho biết, hàng chục năm qua, người dân trong thôn "ước" có nước sạch để sử dụng.

"Trước đây đi kiếm nước sạch khổ lắm nên bà con thường dùng nước giếng và khe suối; biết là dùng thế không đảm bảo cho sức khỏe nhưng phải chịu thôi. Từ ngày có nước, chúng tôi vui lắm, vui đến mất ăn mất ngủ. Nước sạch về thôn là điều mà người dân bao đời nay mong mỏi", chị Ban thổ lộ.

Phấn khởi là tâm trạng chung của người dân khi nhắc đến nước sạch. Tại căn nhà của vợ chồng anh Trần Văn Kim và chị Hồ Thị Ban (thôn Ta Rinh, xã Thượng Nhật) rộn ràng tiếng trẻ nhỏ nô đùa bên dòng nước sạch mát rượi.

Vừa giặt áo quần, vừa cười nói vui vẻ, chị Ban cho biết, hàng chục năm qua, người dân trong thôn “ước” có nước sạch để sử dụng. “Trước đây quá khổ, đi kiếm nước sạch thật khó, dùng nước giếng và khe suối rất nguy hiểm, nhưng phải chịu đựng. Ngày có nước, chúng tôi vui lắm, vui đến mất ăn mất ngủ. Nước sạch đến với người dân là điều mà ai ai cũng rất mong mỏi bao đời nay”, chị Ban chia sẻ!.

Sau khoảng 2 năm xây dựng với sự nỗ lực của chính quyền và chủ đầu tư, Nhà máy nước sạch Thượng Long vừa được Công ty Cổ phần Cấp nước Thừa Thiên - Huế (HueWACO) khánh thành với công suất 2.000 m3/ngày đêm, thiết kế mang tính đặc trưng văn hóa địa phương theo kiến trúc nhà rông của người Cơ tu.


Nhiều người dân Nam Đông đã có nước sạch để sử dụng

Đây là nhà máy nước sạch đầu tiên tại khu vực miền núi của tỉnh Thừa Thiên – Huế được ứng dụng công nghệ hiện đại với bể lắng lọc thông minh chất lượng cao giúp nâng cao chất lượng nước, nước sau khi lắng lọc có độ đục luôn ≤ 0,025 NTU (thấp hơn 80 lần so với tiêu chuẩn Việt Nam), Fe, Mn ≤ 0,001mg/l (thấp hơn tiêu chuẩn Việt Nam 300 lần). Nhà máy được lắp đặt hệ thống tuabin thủy điện trên đường ống nước thô để tạo điện năng cung cấp cho nhà máy, góp phần giảm chi phí vận hành, thân thiện với môi trường. Về mặt công nghệ, HueWACO ứng dụng hệ thống SCADA vào công tác quản lý, vận hành nhằm đưa nâng cao tính tự động hóa. Đồng thời, kết hợp với hệ thống giám sát, vận hành, quản lý hoàn chỉnh, chất lượng nước sạch đầu ra luôn đạt chuẩn an toàn.

Từ khi có Nhà máy nước Thượng Long với công suất 2.000m3/ngày đêm, nhiều bà con ở xã Thượng Nhật, Thượng Quảng, Thượng Long... đã được sử dụng nguồn nước sạch gần nhà. Từ thời điểm đó đến nay, người dân ở huyện vùng cao này (với khoảng 44,5% dân tộc thiểu số) có tỷ lệ dùng nước sạch từ 44% lên trên 80%.

Đến nay đơn vị đang cấp nước cho hơn 1,2 triệu dân (trong đó có hơn 500.000 dân khu vực nông thôn), đạt hơn 97% dân số toàn tỉnh với gần 5.000km đường ống và 30 nhà máy xử lý nước ở khắp địa bàn tỉnh, trong đó có 7 nhà máy lớn, công suất từ 5000 - 82.500m3/ngày đêm. Thời gian qua, HueWACO không ngừng đầu tư, nâng cấp, mở rộng mạng lưới, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm đảm bảo cấp nước an toàn, nâng cao chất lượng dịch vụ cấp nước sạch tới người dân, giám sát chặt chẽ từ đầu nguồn đến tận nhà của người sử dụng.

Cụ thể, HueWACO đã nâng cấp cải tạo các nhà máy, đồng thời, để đảm bảo an ninh về chất lượng nguồn nước khai thác, đơn vị đã quy hoạch ở khu vực thượng nguồn và vị trí cao theo quy hoạch cấp nước đồng bộ, bền vững toàn tỉnh và liên vùng được UBND tỉnh phê duyệt, không ngừng nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ; lắp đặt 4 trạm quan trắc chất lượng nước nguồn sông Hương, sông Bồ, sông Truồi và sông Ô Lâu; lắp đặt thiết bị giám sát chất lượng nước online (độ đục, pH, Clo dư) ở mỗi công đoạn (nguồn - lắng - lọc - bể chứa) các nhà máy xử lý nước và 20 trạm giám sát chất lượng nước trên mạng lưới. Các thiết bị giám sát chất lượng nước được kết nối về Trung tâm vận hành tự động hệ thống cấp nước nên kịp thời theo dõi và xử lý các sự cố xảy ra trong quá trình xử lý nước.

Từ năm 2017 đến nay, ngành nước Thừa Thiên - Huế đã nghiên cứu ứng dụng thành công nhiều đề tài duy trì cấp nước an toàn, nhất là trong mưa lũ và sáng kiến bể lắng lọc thông minh, chất lượng cao, thân thiện với môi trường. Trong đó, sáng tạo về công nghệ xử lý nước, xử lý hiệu quả các nguồn nước có độ đục cao và đã áp dụng thành công tại nhà máy Quảng Tế 2, Tứ Hạ, Phong Thu,... Đặc biệt, mới đây, HueWACO đã vừa đưa vào vận hành Nhà máy nước Vạn Niên (TP. Huế) công suất 120.000m3/ngày đêm (giai đoạn 1: 60.000m3/ngày đêm), được xem là nhà máy nước có quy mô lớn nhất tỉnh. Được biết trong thời gian tới, đơn vị sẽ tiếp tục nâng cấp, cải tạo nhà máy xử lý nước và mạng lưới hiện có, xây dựng mới nhà máy, trạm trung chuyển điều áp, mở rộng mạng lưới cấp nước nhằm duy trì cấp nước an toàn, đảm bảo chất lượng nước, lưu lượng, áp lực hợp lý.

Hoàng Anh