Thúc đẩy hợp tác chuyển đổi xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn

Thứ năm, 25/4/2024, 14:30 (GMT+7)
logo Việt Nam đang đối mặt với những thách thức không nhỏ về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Những thách thức này trở nên phức tạp hơn trong bối cảnh quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa chậm chuyển đổi, ảnh hưởng đến nguồn cung tài nguyên, an ninh môi trường, an ninh nguồn nước và phát triển bền vững. Giải quyết thách thức này, việc thúc đẩy phát triển kinh tế xanh (KTX), kinh tế tuần hoàn (KTTH) là một trong những giải pháp và hướng đi quan trọng phù hợp với định hướng mà nhiều quốc gia trên thế giới đang chuyển đổi.

Thúc đẩy hợp tác chuyển đổi xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn

Cơ hội và thách thức trong chuyển đổi xanh và kinh tế tuàn hoàn

Chuyển đổi xanh, “kinh tế xanh” và “tăng trưởng xanh” theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) và Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (UNESCAP) là chiến lược tìm kiếm tối đa hóa sản lượng kinh tế, trong khi giảm thiểu gánh nặng sinh thái, đảm bảo sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tính bền vững môi trường, thông qua thay đổi căn bản trong phương thức sản xuất và tiêu dùng xã hội, hướng tới ít phát thải, trung hòa carbon, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao đời sống của con người, cải thiện công bằng xã hội; đồng thời, giảm đáng kể những rủi ro môi trường và thiếu hụt sinh thái.

Về bản chất, một nền kinh tế chuyển đổi xanh là một nền kinh tế ngày càng có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo tính công bằng về mặt xã hội và ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ của hệ sinh thái. Nội hàm chuyển đổi xanh mang tính mở cao và ngày càng định hình đầy đủ hơn, với các điểm nhấn về “xanh hóa” phát triển ngày càng rộng khắp các lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng xã hội như: “Công nghệ xanh”, “việc làm xanh”, “công nghiệp xanh”, “nông nghiệp xanh”, “năng lượng xanh”; “giao thông xanh”, “đô thị xanh”; “cảng xanh”; “lối sống xanh”; “tiêu dùng xanh”, “mô hình nhà ở xanh”; “chi tiêu công xanh”,… Những chuỗi giá trị cung - cầu xanh, với các dòng chảy mậu dịch và đầu tư được quy định ngày càng nghiêm ngặt theo yêu cầu cho phát triển bền vững.

Chuyển đổi xanh là yêu cầu thực tiễn và xu hướng thời đại, mang tầm vóc toàn cầu, đang ngày càng trở thành ưu tiên hàng đầu của Việt Nam trên hành trình hội nhập, hướng tới phát triển bền vững và toàn diện. Đặc biệt, với cam kết đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050 và tăng cường thu hút vốn đầu tư vào năng lượng tái tạo, giao thông thông minh, nông nghiệp thông minh, đô thị - công trình xanh, tài chính xanh,… Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực, bắt kịp xu thế phát triển của thế giới, coi đây là giải pháp quan trọng để thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, đóng góp trực tiếp vào giảm phát thải khí nhà kính để hướng tới nền kinh tế trung hòa carbon trong dài hạn, với mục tiêu không ngừng mở rộng KTTH đóng góp mỗi năm vào tổng GDP quốc gia từ quy mô 6,7 tỉ USD năm 2020, lên đến 300 tỉ USD vào năm 2050. Đặc biệt, tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), Việt Nam một lần nữa khẳng định quyết tâm chuyển đổi mô hình tăng cường theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển KTTH.

Để thúc đẩy KTTH và tăng trưởng xanh, Việt Nam đang đẩy mạnh nâng cao nhận thức và năng lực xây dựng, thực thi chính sách về chuyển đổi xanh; tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, chặt chẽ cho quá trình chuyển đổi xanh, nhất là một hệ thống tiêu chuẩn xanh quốc gia hoàn chỉnh, làm cơ sở để xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư hoặc triển khai các chương trình, dự án thí điểm xanh. 

Hiện nay, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã xây dựng các bộ tiêu chí, chỉ số để đánh giá, tác động về mặt chính sách ở địa phương; đồng thời thúc đẩy cộng đồng doanh nghiệp phát triển theo hướng KTX, KTTH, bền vững. VCCI đang cập nhật các xu hướng tăng trưởng xanh, KTTH carbon thấp,… nhất là trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp trong giảm phát thải khí nhà kính. Cùng với đó, các bộ, ngành khẩn trương xây dựng bộ công cụ, tiêu chí, quy chuẩn có tính pháp lí để phân loại, đánh giá hiệu quả, khuyến khích, giám sát các hoạt động tăng trưởng xanh về kinh tế, môi trường, xã hội,… hình thành nhận thức, văn hóa, đạo đức xã hội đối với tăng trưởng xanh. Trước mắt, sớm xây dựng hệ thống tiêu chí phân loại, đánh giá quốc gia, hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế trong lựa chọn dự án đầu tư, lượng hóa kết quả tăng trưởng xanh như: Giảm phát thải, hiệu quả kinh tế, nguồn lực đầu tư của xã hội; tạo việc làm mới, bảo đảm an sinh, hình thành đạo đức, văn hóa của công dân xanh, xã hội xanh, doanh nghiệp xanh…; lựa chọn một số dự án thí điểm có thể tạo ra đột phá, hoàn thiện công nghệ, pháp lý, giáo dục, đào tạo, chứng minh hiệu quả kinh tế, trước khi nhân rộng. Bên cạnh đó, Luật BVMT 2020 đã quy định về tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước, với lộ trình vận hành chính thức từ năm 2028. Theo lộ trình, sàn giao dịch tín chỉ carbon trong nước sẽ vận hành thí điểm từ năm 2025 và vận hành chính thức trong năm 2028. Doanh nghiệp bắt buộc phải xây dựng kế hoạch giảm phát thải từ năm 2026 trở đi. Ngoài ra, việc đáp ứng Bộ chỉ số CSI 2023, nhất là yêu cầu doanh nghiệp giải trình, báo cáo về bộ đo lường về môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (ESG) là điểm hỗ trợ đặc biệt, tạo giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp đang niêm yết trên sàn chứng khoán.

Mặc dù, Việt Nam đã đẩy mạnh mô hình KTX, KTTH theo hướng bền vững, tuy nhiên, phát triển KTTH hiện nay còn có một số hạn chế, đó là: Nhận thức của người dân và doanh nghiệp Việt Nam về KTTH còn hạn chế. Do đó, quá trình phát triển KTTH còn thiếu đồng bộ, thiếu toàn diện và gặp phải những rào cản về nguồn vốn, nguồn nhân lực, nguồn lực khoa học và công nghệ. Nguồn nhân lực chất lượng cao không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển trong lĩnh vực, sự chuyển dịch cấu trúc nguồn nhân lực sang hướng tăng trưởng xanh còn chậm.

Đề xuất một số giải pháp trọng tâm

Để phát triển KTTH gắn với phát triển bền vững đất nước một cách toàn diện, vừa đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế vừa bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái cho tương lai, cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, các chính sách về môi trường cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới; hệ thống thuế tài nguyên, thuế môi trường cần được tiếp tục nghiên cứu để điều chỉnh và hoàn thiện,... Cần đánh giá đúng mức nguy cơ, tác động của ô nhiễm môi trường và khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên thông qua cơ chế như thuế, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường, phục hồi tài nguyên và hệ sinh thái. Tăng cường tổ chức các hội thảo, diễn đàn khoa học để trao đổi kiến thức, kinh nghiệm về phát triển KTTH.

Hai là, tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ, đồng thời tiếp nhận, chuyển giao công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam, đẩy mạnh nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề phát triển KTTH như giảm thiểu phát thải carbon, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng thân thiện với môi trường,... Chính phủ cần đầu tư nguồn lực nhiều hơn nữa vào phát triển và ứng dụng công nghệ cao, phát triển năng lượng, đặc biệt là trong các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế; đảm bảo cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam không vi phạm các quy định về ô nhiễm môi trường, khí hậu.

Bên cạnh đó, cần có các chính sách ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ lạc hậu, không thân thiện với môi trường chuyển đổi sang công nghệ tiên tiến, góp phần nâng cao năng suất sản xuất, tiết kiệm nguyên liệu, đáp ứng tiêu chuẩn của nền KTTH. Ngoài ra, nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ cần được đẩy mạnh, bởi vì nghiên cứu này rất quan trọng trong việc thiết lập các cơ sở lý luận, khoa học và thực tiễn để xây dựng cơ chế, chính sách, các giải pháp quản lý, đóng góp tích cực vào việc dự báo, phòng ngừa, cải tạo, phục hồi, xử lý ô nhiễm môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học.

Ba là, đổi mới tư duy trong nhận thức về bảo vệ môi trường với cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường. Đồng thời, tuyên truyền, giáo dục về môi trường là việc làm trọng yếu, từ đó có những hành động thiết thực trong công tác phục hồi hệ sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, phòng chống biến đổi khí hậu,... ở mỗi người dân, góp phần nâng cao tính hiệu quả của các chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động mà Chính phủ đã đề ra, tiến đến nền KTTH, phát triển xanh và bền vững.

Bốn là, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường thu hút mọi nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế, trong đó tập trung huy động nguồn vốn nước ngoài. Tuy nhiên, cần xây dựng tiêu chí chặt chẽ để lựa chọn những dự án đầu tư thực sự có hiệu quả trong phát triển KTTH, đảm bảo yếu tố bảo vệ môi trường. Việc thu hút nguồn vốn nước ngoài không chỉ góp phần phát triển KTTH mà còn giúp doanh nghiệp trong nước học hỏi được kinh nghiệm từ phía doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời, tăng cường hoạt động giao lưu, hợp tác với cộng đồng quốc tế nhằm tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế để đạt được các mục tiêu quốc gia về phát triển xanh. Ngoài ra, cần tạo điều kiện thuận lợi cho những dự án đầu tư quy mô lớn, hiện đại, đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường, xã hội và quản trị; cũng như học tập kinh nghiệm phát triển xanh của các quốc gia tiên tiến để áp dụng vào Việt Nam.

Năm là, các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số cần chủ động nắm bắt cơ hội, tối ưu hóa mô hình kinh doanh, triển khai tích hợp công nghệ số hóa, thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa, tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, năng cao năng lực quản trị phù hợp với những mô hình sản xuất, kinh doanh và hợp tác mới. Đồng thời, tăng cường khả năng đổi mới sáng tạo xanh của doanh nghiệp thông qua việc cải thiện các hệ thống và cơ chế liên quan, như mua sắm xanh, đánh giá và chứng nhận sản phẩm xanh, chuyển đổi các thành tựu đổi mới công nghệ xanh, nhằm cải thiện tỷ lệ hoàn vốn của đổi mới công nghệ xanh và kích thích sức sống đổi mới công nghệ xanh của các doanh nghiệp.

NGUYỄN HOÀNG MAI
Viện Khoa học Môi trường, Biển và Hải đảo
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 5 năm 2024