
Ảnh minh họa
Trong đó, tập trung theo hướng tổng thể, tích hợp phát triển kinh tế - xã hội với tầm nhìn dài hạn, tăng cường kết nối phát triển giữa các địa phương và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên vùng, bảo đảm tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm. Bài viết này giới thiệu một số ý kiến nổi bật tại Hội nghị.
Ông Đỗ Thanh Bình - Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang: Là tỉnh ở hạ lưu sông Hậu và tiếp giáp với biển, chịu ảnh hưởng trực tiếp của chế độ thủy triều biển Tây khiến cho Kiên Giang là một trong những tỉnh dễ bị tổn thương bởi BĐKH. Thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP năm 2017 về PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH (Nghị quyết 120) của Chính phủ, tỉnh Kiên Giang đã xây dựng kế hoạch thực hiện với 23 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, mục tiêu phấn đấu đến năm 2050 trở thành tỉnh có trình độ phát triển mạnh trong khu vực. Qua 3 năm thực hiện, đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ không những về tư duy mà còn là hành động cụ thể của các cấp, ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh; tạo nguồn cảm hứng cho cộng đồng doanh nghiệp và người dân phát huy tính sáng tạo trong lao động sản xuất, sự chủ động thích ứng với BĐKH. Quan điểm nhất quán về “tôn trọng quy luật tự nhiên, lấy người dân làm trung tâm, chuyển đổi mô hình sản xuất phù hợp với điều kiện từng vùng” đã được Kiên Giang quán triệt, thực hiện và đạt được những kết quả bước đầu.
Trong bối cảnh BĐKH ngày càng diễn biến phức tạp, tỉnh Kiên Giang đề xuất, kiến nghị: Tiếp tục hoàn thiện thể chế về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với BĐKH, nhất là cụ thể hóa quy định pháp luật có liên quan về các vấn đề như: Hội đồng vùng; cơ chế, chính sách đặc thù cho vùng về huy động nguồn lực, khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa lớn; tiếp tục đồng hành, phối hợp chặt chẽ hơn nữa để triển khai có hiệu quả các quyết sách theo Nghị quyết 120, trong đó, vai trò trung tâm của các bộ, ngành trung ương trong việc hoàn thiện các quy hoạch, đề án, chương trình, dự án đã được nêu tại Nghị quyết 120; sự tham gia phản biện, góp ý của các nhà khoa học và các tổ chức quốc tế cho sự phát triển bền vững của vùng.
Từng địa phương cần xác định rõ hơn những ngành, lĩnh vực trọng tâm trong liên kết vùng, đặc biệt là nông, lâm nghiệp, thủy sản; TN&MT; giao thông vận tải;… nhằm tối ưu hóa thế mạnh, phát huy hết tiềm lực của các tỉnh, thành phố trong vùng, đảm bảo hiệu quả sản xuất về số lượng, chất lượng và đầu ra các sản phẩm; quan tâm kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và BVMT.
Ông Lê Quân - Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau: Ba vấn đề được Nghị quyết 120 nhấn mạnh cũng là ba thách thức rất lớn đối với Cà Mau trong quá trình phát triển đó là: Giữ đất, giữ nước, giữ người.
Giữ đất là phòng chống sạt lở, không để mất đất ven sông, ven biển. Giữ nước là quản lý có hiệu quả nguồn nước phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt của người dân. Giữ người là bảo vệ tính mạng, sự sống và phát triển của con người, hạn chế tình trạng di dân, dịch chuyển lao động đi nơi khác.
Giữ đất của Cà Mau đồng nghĩa với giữ rừng. Với nước biển dâng và BĐKH, do lượng phù sa giảm mạnh, rừng ven biển của Cà Mau bị giảm nhanh chóng. Trên nhiều tuyến đê biển Tây đã không còn rừng ven biển.
Để giữ đất, Cà Mau đang thay đổi cách tiếp cận nhằm thích ứng với BĐKH. Cà Mau tiếp cận thu hút phát triển kinh tế biển ven bờ gắn với hệ thống “đê, kè mềm”, phát triển các dự án điện năng lượng tái tạo, nuôi trồng thủy sản ven bờ gắn với các lớp tạo chắn sóng,... Tuy nhiên, các dự án này lại vướng vào mốc giới rừng, do đó, Cà Mau kiến nghị Chính phủ và trung ương có các chính sách về phát triển rừng phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để vừa giữ đất, giữ rừng và phát triển kinh tế địa phương.
Vấn đề thiếu nước ngọt vào mùa khô và thừa nước ngọt vào mùa mưa đang ngày càng nghiêm trọng, ưu tiên của Cà Mau trong những năm tới là tái cấu trúc lại sản xuất nông nghiệp, hình thành các tiểu vùng khép kín gắn với hệ thống thủy lợi nội đồng thích ứng với BĐKH. Đồng thời, tích nước ngọt thông qua xây dựng hệ thống ao, hồ nội đồng. Cà Mau cũng đặt nhiều kỳ vọng vào các dự án thủy lợi dẫn nước tới bán đảo Cà Mau.
Bà Carolyn Turk - Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam: Với tư cách là Đối tác phát triển của Việt Nam, chúng tôi cam kết hỗ trợ mạnh mẽ đối với ĐBSCL và việc thực hiện Nghị quyết 120. Chúng tôi sẵn sàng huy động thêm tri thức và nguồn tài chính để thực hiện tầm nhìn và mục tiêu của Nghị quyết 120. Nhân dịp này, chúng tôi chia sẻ một số điểm được cho là quan trọng để Chính phủ cân nhắc khi tiếp tục thực hiện chương trình trong tương lai.
Thứ nhất, cần đảm bảo sự phối hợp và điều phối theo chiều dọc và chiều ngang một cách hiệu quả. Việc thực hiện thành công Nghị quyết 120 và các chính sách và chương trình liên quan đòi hỏi phải tập hợp các bên liên quan nhằm xác định định hướng và mục tiêu phát triển chung cho vùng ĐBSCL, xác định các ưu tiên đầu tư, phân cấp trách nhiệm và chia sẻ rủi ro và lợi ích. Sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các tỉnh và thành phố vùng ĐBSCL, giữa các bộ, ngành trung ương, giữa trung ương và địa phương, và mối liên hệ giữa quy hoạch - tài chính - quản trị sẽ tăng cường hiệu quả cho công tác quy hoạch và kế hoạch tổng hợp, tăng hiệu quả trong thực thi ngân sách, huy động tài chính, thay đổi chính sách và khả năng cạnh tranh.
Thứ hai, theo quan điểm của chúng tôi, việc đưa quy hoạch vùng vào thực tiễn triển khai sẽ còn là thách thức khó khăn hơn nữa, đòi hỏi nỗ lực “của toàn bộ chính quyền và nhà nước”. Kế hoạch cần bao gồm các hướng dẫn rõ ràng, có sự đồng thuận về vai trò và trách nhiệm của tất cả các bên liên quan chính, có các ưu tiên đầu tư mang tính chiến lược và thực tế, phân bổ tài chính kịp thời và đầy đủ, có cân nhắc về chia sẻ gánh nặng chi phí giữa các bên liên quan, và có cơ chế phản hồi để liên tục phản ánh, đánh giá, cập nhật và sửa đổi.
Thứ ba, tính bền vững phải là trọng tâm của chiến lược tăng trưởng ĐBSCL. Là một trong những khu vực màu mỡ nhất trên thế giới và đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thành công bền vững về phát triển KT-XH của Việt Nam, ĐBSCL cần tiếp tục thúc đẩy sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bao gồm vùng trữ lũ thượng nguồn, nước lợ và nước mặn, năng lượng mặt trời và gió; quản lý bền vững môi trường và tài nguyên thiên nhiên như phù sa, cát, rừng ngập mặn, thủy sản và đa dạng sinh học; giải quyết một cách có hệ thống các vấn đề cấp bách về xói lở bờ biển, bờ sông và sụt lún đất; hỗ trợ tăng trưởng kinh tế xanh và bao trùm, đồng thời, thúc đẩy phát triển con người.
Thứ tư, huy động tài chính đầu tư cho ĐBSCL là thiết yếu và phải dựa trên các nguyên tắc về lập kế hoạch dài hạn, hiệu quả, minh bạch và có trách nhiệm giải trình. Cần phải thiết lập một nền tảng huy động tài chính tổng hợp để tập hợp các nguồn lực công và tư, đồng thời, phân bổ các nguồn lực cho các khoản đầu tư thông minh với khí hậu; cung cấp khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho quan hệ đối tác tài chính giữa các tỉnh và cơ chế mở rộng tài chính tư nhân; và thiết lập một hệ thống thực thi và phân bổ ngân sách được đơn giản hóa và hiệu quả với các biện pháp khuyến khích tài khóa mạnh mẽ để thúc đẩy đầu tư mang tính vùng và liên tỉnh.
Phương Chi (lược ghi)