Thực hiện các dự án điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo

Thứ tư, 20/10/2021, 06:26 (GMT+7)
logo Điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo là nhiệm vụ hết sức cần thiết, phục vụ hữu hiệu cho công tác quy hoạch, hoạch định phát triển kinh tế của các quốc gia có biển.

Thực hiện các dự án điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo

Ảnh minh họa

Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã ban hành một hệ thống các chủ trương, chính sách quy mô và toàn diện, trong đó, Hội nghị lần Thứ 8 Ban Chấp hành TW Đảng khoá XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;

 

Để triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 28/QĐ -TTg phê duyệt Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030 (sau đây gọi tắt là Chương trình); Quyết định số 203/QĐ -TTg về việc thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Khách quan có thể thấy, công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đã nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện từ cấp cao nhất trong hệ thống chính trị của nước ta.

 

Những bất cập trong thực hiện các dự án điều tra cơ bản

 

Qua 10 năm thực hiện Đề án Tổng thể Điều tra cơ bản TN, MT biển (Đề án 47) và bước đầu triển khai thực hiện Chương trình trọng điểm, những bất cập, khó khăn trong triển khai thực hiện các dự án, nhiệm vụ điều tra cơ bản TN,MT biển thuộc Chương trình/ chuyển tiếp vào Chương trình và các dự án đang triển khai thuộc Đề án 47 (gọi tắt là Dự án ĐTCB) đã bộc lộ những mặt hạn chế, những vấn đề bất cập cần tháo gỡ, thay đổi tư duy, nhận thức trong quản lý nhà nước về điều tra cơ bản TN,MT biển.

 

Các dự án ĐTCB phần lớn phê duyệt và tổ chức thực hiện chậm tiến độ so với Quyết định phê duyệt. Vì vậy, những quyết định trong quản lý, hoạch định chính sách của các bộ, ngành, địa phương có biển về định hướng phát triển kinh tế biển sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro, hiệu quả không cao, kém bền vững do không có được đầy đủ, kịp thời các thông tin, dữ liệu, kết quả ĐTCB TN,MT biển.

 

Nhiều dự án ĐTCB có nội dung chuyên môn phức tạp, lần đầu được triển khai ở Việt Nam, chưa có các văn bản QPPL về quy chuẩn, quy định kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá đối với các dạng công việc thực hiện do vậy gặp nhiều lúng túng, khó khăn trong việc trình phê duyệt dự toán, phê duyệt dự án, nhiệm vụ tại các bộ, ngành chủ quản.

 

Một số đơn vị có năng lực, tiềm lực về nghiên cứu KHCN, khoa học Trái đất nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các dự án ĐTCB, do vậy việc xây dựng dự án kéo dài, phải sửa chữa nhiều lần theo ý kiến góp ý của các cơ quan, đơn vị có liên quan.

Hầu hết các đơn vị thực hiện dự án ĐTCB chưa có tàu nghiên cứu, điều tra chuyên dụng phục vụ điều tra dài ngày trên vùng biển sâu, xa bờ (trừ tàu nghiên cứu biển mang tên Viện sĩ Trần Đại Nghĩa của Quân chủng Hải quân). Việc xác định các yêu cầu kỹ thuật đối với tàu khảo sát, xây dựng dự toán giá thuê tàu gặp nhiều khó khăn.

 

Còn thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị thực hiện các dự án, nhiệm vụ thuộc Chương trình trọng điểm trong xây dựng, tổ chức thực hiện. Việc chia sẻ thông tin, tài liệu giữa các đơn vị thực hiện dự án ĐTCB còn nhiều hạn chế do vướng mắc về thủ tục, nhận thức chưa tốt về việc phối hợp thực hiện. Hàm lượng KHCN trong các dự án ĐTCB chưa cao, chưa có sự phối hợp, gắn kết giữa công tác ĐTCB với nghiên cứu KHCN biển.

 

Nguồn kinh phí do NSNN cấp không đảm bảo theo phân kỳ thực hiện Dự án theo quyết định phê duyệt, nhiều khi kinh phí cấp không đủ để thực hiện trọn vẹn một chuyến khảo sát biển khiến các dự án kéo dài, phát sinh các chi phí có liên quan đến tổ chức khảo sát (di chuyển người, trang thiết bị, phát sinh chi phí tàu di chuyển ra vào cảng do tăng số chuyến khảo sát,…).

 

Cơ chế quản lý tài chính còn cứng nhắc ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ thực hiện dự án ĐTCB.

Các thủ tục, quy định về quản lý chi tiêu tài chính rất chặt chẽ nhưng không phù hợp với đặc thù điều kiện thời tiết biển ở nước ta: Công tác điều tra cơ bản thường chỉ triển khai được trong khoảng thời gian ngắn trong điều kiện thời tiết thuận lợi (từ tháng 4 đến tháng 6 hàng năm).

 

 Việc thuê tàu của ngư dân phục vụ khảo sát trở lên rất khó khăn khi phải thực hiện đấu thầu (các ngư dân không hoạt động kinh doanh, không đủ điều kiện tham gia đấu thầu và đấu thầu qua mạng). Mặt khác, giá thuê tàu đánh cá của người dân lại biến động theo mùa vụ đánh bắt thuỷ sản. Do đó, thời gian tiến hành công tác chuẩn bị cho việc thuê tàu thường kéo dài, bị động trong tổ chức điều tra trên biển.

 

Việc ứng kinh phí thực hiện các nội dung công việc cũng gặp nhiều vướng mắc do các thủ tục, quy định của Kho bạc Nhà nước, đặc biệt là khi phải xử lý những vấn đề sự cố thiết bị cần phải sửa chữa trong thời gian rất ngắn để bảo đảm kế hoạch điều tra khảo sát biển.

 

Nghị định số 141/2016/NĐ - CP quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác; Thông tư số 145/2017/TT-BTC hướng dẫn cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định số 141/2016/NĐ-CP có những điểm quy định không phù hợp thực tế, đã vô tình trói buộc, làm khó cho các đơn vị thực hiện Dự án ĐTCB, làm thu nhập của cán bộ làm công tác ĐTCB giảm sút, không đảm bảo cho các nhu cầu tối thiểu của cuộc sống.

 

Trang thiết bị điều tra khảo sát, quan trắc, phân tích hiện trường, phân tích trong phòng chưa đáp ứng về số lượng, chủng loại. Nhiều thiết bị điều tra chuyên dụng hiện trường chỉ có đơn chiếc, khi gặp sự cố không có thay thế, phải điều chỉnh kế hoạch thực hiện hoặc trả lại kinh phí NSNN cấp.

 

Đề xuất các giải pháp

 

Kết quả điều tra cơ bản TN,MT biển và hải đảo có giá trị lâu dài, phục vụ đa ngành, đa mục tiêu. Tài nguyên biển không chỉ đơn thuần là những nguồn lợi trước mắt (có thể khai thác sử dụng ngay) mà còn là những giá trị, lợi thế bền vững lâu dài, đóng vai trò quan trọng đối với phát triển bền vững kinh tế biển xanh nói chung và nền kinh tế xanh của quốc gia; có vị thế quan trọng trong bảo đảm QP-AN trên biển, khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

 

Hoạt động ĐTCB TN,MT biển và hải đảo là nguồn cung cấp tài liệu quan trọng, sự hiểu biết về biển, hải đảo góp phần hoạch định các chính sách, phát triển kinh tế biển bền vững, góp phần củng cố QP-AN trên biển. Mọi hoạt động liên quan đến biển, khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo theo phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất (QLTH&TN) phải xuất phát từ sự hiểu biết sâu sắc về biển và đại dương thông qua cơ sở dữ liệu kết quả điều tra cơ bản TN,MT biển và hải đảo, các nghiên cứu KHCN tiên tiến bằng nguồn nhân lực chất lượng cao; nguồn đầu tư bền vững và nhận thức toàn dân.

 

Do vậy, Nhà nước cần đảm bảo ngân sách để duy trì thực hiện hoạt động điều tra cơ bản lâu dài. Kinh phí cho ĐTCB TN,MT biển và hải đảo phải phù hợp với mức độ đóng góp của kinh tế biển vào GDP của Việt Nam. Đồng thời, phải có chính sách, chế độ đãi ngộ, thu hút nghề, đào tạo nghề thích đáng để hình thành, phát triển nguồn nhân lực ĐTCB TN,MT biển và hải đảo có trình độ tiên tiến ngang tầm khu vực.

 

Khẩn trương kiện toàn Văn phòng Cơ quan Thường trực Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững KTB đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để văn phòng đi vào hoạt động ổn định, thực hiện vai trò điều phối, quản lý, giám sát, kiểm tra nghiệm thu kết quả các dự án ĐTCB.

 

Đảm bảo duy trì nguồn lực thường xuyên, lâu dài, đáp ứng cho công tác điều tra cơ bản TN,MT biển và hải đảo:

 

Nhà nước cần ưu tiên nguồn lực đảm bảo tiến độ các dự án điều tra cơ bản TN,MT biển ở vùng biển sâu, biển xa trên vùng đặc quyền kinh tế; các bộ, ngành chủ quản thực hiện dự án ĐTCB bố trí nguồn lực, nhất là nguồn kinh phí, trước mắt tập trung triển khai các dự án đã được phê duyệt và mở mới, xây dựng thuyết minh nội dung và dự toán trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, hoàn thành trong quý III/2021.

 

Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nhiệm vụ “Điều tra, khảo sát, xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về tăng cường nguồn lực đầu tư cho công tác ĐTCB và QLTH&TN về biển, hải đảo phục vụ phát triển bền vững KTB”.

 

Khẩn trương triển khai tăng cường nguồn lực (trang thiết bị, phương tiện điều tra khảo sát, đội ngũ cán bộ điều tra, nghiên cứu KHCN biển trình độ cao ngang tầm khu vực) bảo đảm thực hiện thành công các dự án điều tra tổng hợp TN,MT biển, hải đảo, phát hiện các tài nguyên mới, khoáng sản biển sâu ở vùng biển có độ sâu trên 2500 m nước và vùng biển các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam;

 

Đẩy nhanh tiến độ Đề án “Phát triển đội tàu điều tra, khảo sát, nghiên cứu biển” đến năm 2030 hình thành Đội tàu nghiên cứu biển Việt Nam với quy mô 8-10 tàu trong đó có từ 2 tàu nghiên cứu chuyên dụng được trang bị hiện đại, có khả năng hoạt động nghiên cứu khoa học biển trên Biển Đông và vùng biển quốc tế.

 

Thay đổi phù hợp trong cơ chế, chính sách:

 

Kiến nghị Bộ Tài chính xem xét ban hành Thông tư quy định về chi tiêu tài chính mang tính đặc thù áp dụng cho các dự án ĐTCB cho phù điều kiện thời tiết biển Việt Nam, phù hợp với việc sửa chữa các thiết bị điều tra khảo sát chuyên dụng khi gặp sự cố trong quá trình điều tra trên biển.

 

 Xây dựng chế độ chính sách phù hợp dành cho lực lượng tham gia điều tra cơ bản tài nguyên môi trường biển và hải đảo. Phải xem lực lượng điều tra khảo sát biển như những chiến sĩ thầm lặng ngày đêm bám biển, khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền biển của quốc gia.

 

Đối với các đơn vị thực hiện Dự án ĐTB:

 

Đối với các đơn vị thực hiện dự án ĐTB, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ ĐTCB, phải thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá kết quả thực tế, khi cần thiết cần điều chỉnh mục tiêu, phạm vi, nội dung dự án cho phù hợp để bảo đảm chất lượng, tiến độ và hiệu quả thực hiện dự án, tránh lãng phí ngân sách nhà nước.

 

Chủ động phối hợp với Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam trong việc xây dựng thuyết minh - dự toán dự án ngay từ khâu lập, phê duyệt, tổ chức thực hiện đến hoạt động nghiệm thu và đánh giá kết quả thực hiện các dự án ĐTCB. Cung cấp kịp thời Kế hoạch thực hiện hàng năm (cập nhật khi có sự điều chỉnh của cấp có thẩm quyền), báo cáo kết quả thực hiện kịp thời phục vụ công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, nghiệm thu kết quả.

 

 Chủ động mời đại diện của Văn phòng Ủy ban, các bộ, ngành liên quan tham gia kiểm tra thực tế, tham gia nghiệm thu đánh giá kết quả thực hiện các dự án ĐTCB ngay từ những năm đầu thực hiện.

 

Chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các quy chuẩn, tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá phục vụ các Dự án ĐTCB trình Bộ, ngành chủ quản ban hành hoặc đề xuất Bộ TN&MT ban hành.

 

Với Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam:

 

 Tăng cường việc hướng dẫn tổ chức thực hiện các dự án ĐTCB, bảo đảm sự thống nhất ngay từ khâu lập kế hoạch (phải có các PA dự phòng khi triển khai), phê duyệt kế hoạch, công tác hậu cần trước khi đi biển, kiểm định, đánh giá sự ổn định các thiết bị, phương tiện trước khi khảo sát, quy định về thu thập, quản lý tài liệu nguyên thuỷ, kiểm tra đánh giá tài liệu nguyên thuỷ, tài liệu xử lý.

 

Hướng dẫn mẫu báo cáo kết quả thực hiện dự án ĐTCB hàng năm, báo cáo kết quả cuối cùng của các chuyên đề, các hợp phần và dự án ĐTCB.

 

Hướng dẫn việc ứng dụng công nghệ thông tin, số hoá tài liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu ĐTCB đảm bảo sự tương thích, tích hợp kịp thời kết quả ĐTCB vào cơ sở dữ liệu TN,MT biển quốc gia. Nâng cấp hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, công nghệ hiện đại phục vụ hữu hiệu cho công tác quản lý tổng hợp, thống nhất về biển và hải đảo.

 

 Đề xuất xây dựng các văn bản QPPL về quy chuẩn, quy định kỹ thuật đối với các dự án ĐTCB khi đủ điều kiện; xem xét kiến nghị ban hành các quy định kỹ thuật tạm thời đối với những nội dung chuyên môn chưa có văn bản QPPL quy định để thống nhất trong triển khai thực hiện, kiểm tra, giám sát, nghiệm thu kết quả.

 

 Tăng cường hợp tác quốc tế trong điều tra, nghiên cứu KHCN biển, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo kịp các nước có nền KHCN biển tiên tiến trên thế giới. Xây dựng Đề án nghiên cứu KHCN biển phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến 2045. Ưu tiên phát triển KHCN biển gắn với chế tạo trang thiết bị khảo sát, ứng dụng KHCN cao, trí tuệ nhân tạo phục vụ ĐTCB, hỗ trợ ra quyết định.

 

TRỊNH NGUYÊN TÍNH

Cục Quản lý điều tra cơ bản biển và hải đảo

Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam