Thực thi chính sách EPR - Bài toán đặt ra cho làng nghề tái chế

Thứ hai, 16/5/2022, 16:23 (GMT+7)
logo Luật Bảo vệ môi trường 2020 có những điều chỉnh căn bản về chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR) và được quy định trong Điều 54 và Điều 55. Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các bộ, ngành liên quan sẽ quyết định tỷ lệ tái chế bắt buộc và quy cách tái chế bắt buộc cho các ngành hàng. Hiện tại, Vụ Pháp chế, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang hướng dẫn chi tiết việc thực thi EPR theo quy định mới. Tổ công tác EPR ở Việt Nam đã được thành lập để thúc đẩy đối thoại đa bên trong xây dựng chính sách và thực thi EPR tại Việt Nam.

Thực thi chính sách EPR - Bài toán đặt ra cho làng nghề tái chế

Nhận diện lợi ích khi tham gia EPR

Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR) là công cụ mang tính đột phá của Chính phủ trong việc BVMT, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn (KTTH). Việc thực thi này là thách thức lớn đối với các nhà quản lý và doanh nghiệp nhưng nó là xu hướng tất yếu với một số lợi ích cơ bản như: Thúc đẩy hệ thống, tái chế cả những loại bao bì và sản phẩm ít giá trị, khó tái chế đang gây ô nhiễm môi trường và làm quá tải các bãi rác như hiện nay. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp nỗ lực thiết kế sản phẩm và bao bì sinh thái có khả năng thu gom, tái chế cao hơn, từ đó giảm chi phí và gánh nặng cho nhà tái chế. Ngoài ra, chính sách này có khả năng hỗ trợ ngành tái chế chuyển đổi hệ thống tái chế giản đơn, chất lượng thấp sang hệ thống chất lượng cao, tiên tiến, hiện đại; tạo ra sản lượng tái chế lớn, chất lượng cao làm tăng thêm nhu cầu, tạo ra thị trường cho sản phẩm tái chế; hạn chế rủi ro tài chính cho các nhà tái chế do việc tái chế thiếu an toàn, khả thi về mặt kinh tế, kinh phí hỗ trợ từ EPR sẽ giải quyết vấn đề này.

Tuy nhiên, KTTH nói chung, chính sách EPR nói riêng sẽ ảnh hưởng đến những làng nghề tái chế nói riêng và ngành tái chế nói chung. Chính sách EPR quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất đối với 6 nhóm ngành hàng bao gồm: Bao bì, pin - ắc quy, dầu nhờn, săm lốp, thiết bị điện tử, ô tô - xe máy. Hầu hết các mặt hàng này sau khi thải bỏ đang được tái chế tại các làng nghề. Nhiều năm qua, chúng ta chưa có sự nhìn nhận, hướng dẫn và đầu tư đúng mức. Vì vậy, nhiều làng nghề phát sinh ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là gây nguy hại đối với chính những người lao động trong làng nghề đó.

Thực hiện chính sách mới, bắt buộc các doanh nghiệp phải thu gom, tái chế hoặc thuê doanh nghiệp thu gom, tái chế các loại bao bì và sản phẩm. Đây chính là động lực thúc đẩy làng nghề hình thành các doanh nghiệp tái chế đảm bảo môi trường, tạo ra thị trường thu gom phế liệu triệt để hơn, số lượng lớn hơn, đồng nghĩa với việc tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập.

Khi các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, chính họ sẽ phải bắt tay với hệ thống thu gom phế liệu, tái chế, đồng nghĩa với việc hệ thống này được quan tâm, đặt vào vị trí cao hơn trong nền kinh tế.

Theo Hiệp hội Nhựa Việt Nam, khi thực thi chính sách, mỗi làng nghề tái chế sẽ dịch chuyển thành 2 xu hướng, một số hộ tái chế lớn sẽ kết hợp để thành lập doanh nghiệp tái chế và di chuyển vào các khu công nghiệp, thực hiện tái chế đảm bảo về môi trường để được nhận kinh phí hỗ trợ, phần còn lại sẽ làm công việc thu gom, để cung cấp cho doanh nghiệp tái chế. Như vậy, việc tái chế tại các làng nghề sẽ giảm mạnh, bài toán ô nhiễm tại các làng nghề sẽ được giải.

Bài toán xung đột lợi ích - Lưu ý cho ngành bao bì

Việc thực thi chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất không tạo ra xung đột về lợi ích giữa các doanh nghiệp tái chế và các làng nghề tái chế. Chính sách này tạo ra dòng tiền, tăng thêm kinh phí cho thu gom tái chế lớn hơn trước đây làm cho thị trường thu gom tái chế mạnh hơn, những cá nhân, tổ chức hoạt động trong thị trường đó đều được hưởng lợi. Các doanh nghiệp tái chế được hỗ trợ kinh phí từ chính sách sẽ cạnh tranh để thu gom, tái chế với sản lượng lớn hơn, giá cao hơn, tăng thêm thu nhập cho hệ thống thu gom phi chính thức. Trong khi đó, các hộ gia đình tái chế có cơ hội để chuyển đổi từ tái chế giản đơn, gây ô nhiễm thành các doanh nghiệp tái chế tiên tiến, BVMT.

Bà Nguyễn Hoàng Phượng, chuyên gia tư vấn chính sách và pháp luật cho biết, công cụ EPR đã được ứng dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới và đem lại hiệu quả cao. Theo Bà Phượng, Điều 54 và Điều 55 của Luật BVMT năm 2020 đưa ra công cụ EPR có phần tiến bộ hơn so với các quy định cũ, giúp đa dạng dòng chất thải, tăng khả năng tiếp cận và độ bao phủ cũng như khắc phục sự bất bình đẳng. Tuy nhiên, nhìn từ sự chưa thành công trước đó, có thể thấy được nhiều điểm yếu của Việt Nam trong quá trình thực thi chính sách EPR, ví dụ như sự thiếu hụt về thông tin; không có động lực hành động; không đủ tiềm lực và kinh nghiệm,… Điều này, dẫn đến việc doanh nghiệp không đóng góp tích cực cho ngành tái chế, thậm chí đề ra những quy định thu gom rác mang tính chất “đẩy trách nhiệm về phía người tiêu dùng” như thiết lập quá ít điểm thu gom hay chỉ thu gom phế thải đạt tiêu chuẩn nhất định.

Theo rà soát của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), trong hơn 400 mô hình EPR được triển khai trên khắp thế giới, đa phần đều được tổ chức theo hình thức tập thể, tức là thành lập những tổ chức trách nhiệm của nhà sản xuất để thực hiện trách nhiệm thu hồi, xử lý và tái chế, thay vì tiến hành một cách riêng lẻ.

Để thực thi EPR với những quan điểm mới, ngành bao bì đang có những lợi thế lớn, đặc biệt là với sự thành lập của Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam, được các chuyên gia nhận xét là “hình thức sơ khai của tổ chức thực thi trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất”. Để PRO Việt Nam, ngành bao bì và khắc phục được những điểm bất cập, thực hành hiệu quả công cụ EPR, các chuyên gia tư vấn chính sách và pháp luật đưa ra một số nội dung cần được cân nhắc.

Thứ nhất, cần xác định rõ nhà nhập khẩu, nhà sản xuất có nghĩa vụ thực thi EPR phải là những doanh nghiệp có tác động cũng như quyền quyết định cao nhất tới cả thượng nguồn và hạ nguồn của chuỗi sản xuất, từ đó tạo ra sự đồng bộ ngay từ khâu thiết kế sản phẩm, lựa chọn nguyên vật liệu cho tới công đoạn thu gom, xử lý.

Thứ hai, cần có tiêu chí phân loại bao bì đối với bao bì dịch vụ, tức là loại bao bì chỉ sử dụng để chuyển hàng hóa cho người tiêu dùng như bìa các tông hay túi ni-lông. Theo kinh nghiệm quốc tế, trách nhiệm cho bao bì dịch vụ sẽ được thực hiện bởi người sản xuất hoặc kinh doanh bao bì dịch vụ để đảm bảo sự công bằng cho hệ thống EPR.

Thứ ba, mở rộng định nghĩa về bao bì. Các loại bao bì chất lượng cao như lon nhôm, chai nhựa PET hiện nay đang được thu gom rất hiệu quả bởi lực lượng thu gom rác thải phi chính thức. Do đó, định nghĩa hẹp về bao bì sẽ tiềm ẩn sự xung đột trong việc thu gom.

Mặt khác, doanh nghiệp cần phải chịu trách nhiệm cho cả những bao bì kém chất lượng, ít giá trị tái chế để thực sự làm giảm áp lực cho hệ thống thu gom, xử lý rác thải.

Cuối cùng, cần có sự quan tâm nhất định tới nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong nghị định của Bộ TN&MT, nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ sẽ không phải chịu trách nhiệm thực thi EPR. Tuy nhiên, những doanh nghiệp lớn cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện EPR, tránh hiện tượng nhóm doanh nghiệp này trở thành những “kẻ ăn không và bỏ lơ trách nhiệm”.

Ông Fausto Tazzi, Phó chủ tịch PRO Việt Nam cũng nhận định, quy định về việc miễn trách nhiệm thực thi EPR cho doanh nghiệp nhỏ cần được cân nhắc kỹ lưỡng bởi có thể trở thành nguyên nhân khiến doanh nghiệp nhỏ đánh mất đi động lực trưởng thành, mở rộng quy mô.

NGUYỄN MINH THI

Hiệp hội Nhựa Việt Nam