Thực thi pháp luật tài nguyên nước: Góc nhìn từ địa phương

Thứ hai, 3/2/2025, 07:14 (GMT+7)
logo Ngay sau khi Luật Tài nguyên nước năm 2023 có hiệu lực thi hành, các ngành chức năng, cấp ủy, chính quyền các cấp địa phương đã vào cuộc tích cực nhằm cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước với mục tiêu bảo đảm an ninh nguồn nước; xã hội hóa ngành nước, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra.

Thực thi pháp luật tài nguyên nước: Góc nhìn từ địa phương

Bà Lê Thủy Trinh - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Quảng Nam: Quảng Nam với diện tích tự nhiên là hơn 10 ngàn km2 với đường bờ biển chạy dài trên 125 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng hơn 40 ngàn km2. Quảng Nam là tỉnh thuộc vùng Kinh tế trọng điểm Miền Trung. Quảng Nam được biết đến với các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử mà nổi bật là 02 di sản văn hoá thế giới: phố cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn. 

Quảng Nam có nguồn TNN khá dồi dào, với mạng lưới sông ngòi tương đối phát triển với tổng chiều dài 941 km; Sông, suối của tỉnh Quảng Nam đều bắt nguồn từ vùng núi phía Tây, Tây Bắc hoặc Nam, Tây Nam với độ cao từ 1.000 đến trên 2.000 m. Do điều kiện địa hình, các sông Quảng Nam hầu hết đều ngắn và có độ dốc lớn. Tỉnh Quảng Nam có 02 hệ thống sông lớn là hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn và hệ thống sông Tam Kỳ, phần hạ lưu 02 hệ thống sông này được nối nhau bởi sông Trường Giang. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có nhiều cửa sông và lạch lớn với gần 30.000 ha mặt nước (cả nước ngọt, lợ, mặn).

Thời gian qua, Quảng Nam đã nỗ lực triển khai nhiều nhiều nhiệm vụ, giải pháp để tăng cường công tác quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả TNN mặt, nước dưới đất. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý TNN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhất định. Và đặc biệt là trước những áp lực từ gia tăng dân số, tăng trưởng kinh tế và nhu cầu sử dụng nước ngày càng cao, tác động của biến đổi khí hậu đã đặt thêm nhiều áp lực hơn nữa trong công tác quản lý, khai thác hiệu quả, bền vững TNN. 

Luật TNN năm 2023 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2024 với nhiều nội dung mới, cách tiếp cận mới. Đến nay, Chính phủ, Bộ TN&MT đã ban hành 2 Nghị định, 3 Thông tư hướng dẫn thi hành Luật. Luật cũng đã giao cho địa phương thực thi rất nhiều nội dung để tổ chức thi hành Luật (điều tra cơ bản, phương án khai thác trong quy hoạch tỉnh, lập, cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước, hạn chế khai thác nước dưới đất, vùng bảo hộ vệ sinh công trình lấy nước sinh hoạt, lập và ban hành danh mục hồ ao không được san lấp, dòng chảy tối thiểu trên sông, suối nội tỉnh,...). Để triển khai thi hành Luật, UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành Kế hoạch số 3844 ngày 28/5/2024 triển khai thi hành Luật TNN năm 2023 trên địa bàn tỉnh. Kế hoạch cũng đã xác định cụ thể các nhiệm vụ cần triển khai thực hiện; trong đó nhiều nhiệm vụ đòi hỏi nguồn lực thực hiện lớn cả về chuyên môn lẫn tài chính. 

Ông Mai Văn Thạch - Giám đốc Sở TN&MT Lai Châu: Nhằm tổ chức thi hành Luật TNN năm 2023 kịp thời, đồng bộ, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả, UBND tỉnh Lai Châu đã ban hành Kế hoạch số 1741/KH-UBND ngày 10/5/2024 của UBND tỉnh Lai Châu về việc triển khai thi hành Luật TNN năm 2023. Trên cơ sở này, ngày 06/9/2024, Sở TN&MT Lai Châu đã ban hành Kế hoạch số 2346/KH-STNMT ngày về việc tổ chức hội nghị phố biến, tuyên truyền Luật TNN số 28/2023/QH15 và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành.

Trên địa bàn tỉnh Lai Châu có 96 sông, suối thuộc Danh mục lưu vực sông liên tỉnh và Danh mục sông nội tỉnh. Trong đó, có 04 sông liên tỉnh lớn trên địa bàn tỉnh, gồm: Sông Đà, sông Nậm Na, sông Nậm Mạ, sông Nậm Mu. Mạng lưới sông suối của tỉnh phân phối tương đối đều. Sông, suối trên địa bàn tỉnh Lai Châu vừa có tác dụng dẫn nước cung cấp nước tưới cho ruộng đồng, vừa là nguồn nước cấp cho các nhà máy xử lý nước sạch phục vụ sinh hoạt cho nhân dân. 

Toàn tỉnh Lai Châu có 81 hồ, đập chứa nước trong đó có 15 hồ chứa có dung tích trên 01 triệu m3, 66 hồ chứa nước dưới 01 triệu m3, đặc biệt các hồ chứa lớn đều là các hồ thủy điện như: Bản Chát 2137,7 triệu m3, Lai Châu 1215,1 triệu m3, Huội Quảng 184,2 triệu m3. Bên cạnh đó, tổng trữ lượng nước dưới đất có thể khai thác của tỉnh Lai Châu là 1.706.005 m3/ngày, trong đó tầng chứa nước phong phú nhất, có thể khai thác phục vụ cho các mục đích cấp nước là tầng chứa nước p1-2 với trữ lượng có thể khai thác là 327.754 m3/ngày. Ngoài ra, còn một số tầng có khả năng khai thác trên địa bàn tỉnh Lai Châu là các tầng chứa nước: k, s-d1, t2, t3.

Tuy nhiên, công tác quản lý TNN trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn. Hiện trên địa bàn tỉnh chưa có hệ thống quan trắc, giám sát TNN nên chưa giám sát nguồn nước, chất lượng nước tại đầu nguồn để thực hiện công tác quản lý, bảo vệ chất lượng nguồn nước từ Trung Quốc về tỉnh Lai Châu. Bên cạnh đó, một số công trình điều tiết, khai thác, sử dụng, phát triển TNN trên địa bàn tỉnh chưa được đưa vào Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Hồng - Thái Bình thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Chính vì vậy, về phía địa phương cũng kiến nghị các cơ quan trung ương sớm điều chỉnh, bổ sung vào Quy hoạch để tháo gỡ vướng mắc về pháp lý cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, địa phương cũng kiến nghị bổ sung kinh phí để triển khai thực hiện nhiệm vụ trong Kế hoạch số 1000/KH-UBND ngày 31/3/2022 về việc điều tra cơ bản TNN đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đối với các nguồn nước nội tỉnh trên địa bàn, như: Thực hiện cắm mốc giới hành lang bảo vệ nguồn nước; kiểm kê TNN đối với nguồn nước nội tỉnh; Điều tra, đánh giá, xác định và công bố dòng chảy tối thiểu; khả năng tiếp nhận nước thải trên các sông, suối nội tỉnh; thực hiện điều tra, khoanh định, công bố vùng hạn chế khai thác nước dưới đất trên địa bàn tỉnh;…

Ông Đàm Trung Hiếu - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Quảng Ninh: Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có 67 sông, suối, chiều dài trên 10 km. Trong đó có 6 sông, suối thuộc lưu vực sông lớn, 29 sông, suối thuộc lưu vực sông liên tỉnh độc lập và 32 sông, suối là sông nội tỉnh độc lập. Ngoài ra còn có 176 hồ chứa nước mặt với tổng dung lượng nước khai thác trên 396 triệu m3/năm phục vụ sản xuất, sinh hoạt.

Mặc dù, được đánh giá là địa phương có mạng sông, suối khá dày đặc, nhưng do đặc điểm địa hình của Quảng Ninh chia cắt, nhiều đồi núi, hải đảo làm mất cân đối nguồn nước theo mùa và khu vực, gây khó khăn trong việc đáp ứng nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất trên địa bàn. Bên cạnh đó, tình trạng khai thác nước ngầm quá mức có thể dẫn đến nguy cơ cạn kiệt, nhiều diện tích rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ là nhân tố giữ vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn sinh thủy tự nhiên đang đối mặt với tình trạng suy giảm, dẫn đến mất tầng trữ nước bề mặt, xói mòn đất, ảnh hưởng việc giữ nước. Đặc biệt, một số các cơ sở trường học, nhà hàng, khách sạn trên địa bàn tỉnh đang khai thác, sử dụng nước, thuộc trường hợp phải làm thủ tục cấp phép nhưng chưa thực hiện đúng, khai thác không phép, không đăng ký theo quy định.

Mặt khác, trước những tác động ngày càng rõ rệt của biến đổi khí hậu, một số huyện vùng cao, hải đảo trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đang đối mặt với tình trạng không cân đối được nguồn nước tại chỗ cho các nhu cầu phát triển KT-XH. Tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn có xu hướng xảy ra trên diện rộng, diễn biến phức tạp, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Theo đó, nhận thức rõ tầm quan trọng trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước để phát triển kinh tế, ổn định đời sống, xã hội, thời gian qua, tỉnh Quảng Ninh đã triển khai đồng bộ các giải pháp đảm bảo an ninh nguồn nước phục vụ mục tiêu phát triển KT-XH theo hướng bền vững. Trong đó, mục tiêu trọng tâm là bảo đảm số lượng, chất lượng nước cấp cho sinh hoạt trong mọi tình huống, đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất và các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu, góp phần phát triển KT-XH bền vững, đảm bảo lợi ích quốc gia, QP-AN. Đồng thời, bảo đảm an toàn tuyệt đối đập, hồ chứa nước lớn, cấp nước đa mục tiêu, chủ động ứng phó khi có sự cố, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và chủ động tích, trữ, điều hòa nguồn nước.

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 22 (Kỳ 2 tháng 11) năm 2024