
Ảnh minh họa.
Dự án “treo”, quy hoạch “treo” - Khái quát tình hình
Theo báo cáo tổng kết thi hành LĐĐ của 59 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đến hết năm 2020, tổng diện tích đất đã giao cho các đối tượng sử dụng là 26.842.798 ha, chiếm 81,04% tổng diện tích tự nhiên, trong đó: Hộ gia đình và cá nhân đang sử dụng 15.875.758 ha, chiếm 47,93% tổng diện tích tự nhiên. Các tổ chức trong nước đang sử dụng 10.568.289 ha, chiếm 31,91% tổng diện tích tự nhiên. Các tổ chức nước ngoài (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức ngoại giao) sử dụng 46.490 ha, chiếm 0,14% tổng diện tích tự nhiên và bằng 0,17% diện tích đất đã giao cho các đối tượng sử dụng. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng 3 ha. Cộng đồng dân cư và cơ sở tôn giáo đang sử dụng là 352.258 ha, chiếm 1,06% tổng diện tích tự nhiên và bằng 1,31% diện tích đất đã giao cho các đối tượng sử dụng,...
Năm 2020, cả nước có 549 KCN với diện tích đất KCN thực tế đã đưa vào sử dụng là 90,80 nghìn ha, chiếm 2,31% diện tích đất phi nông nghiệp của cả nước, tăng 18,80 nghìn ha so với năm 2010. Tuy nhiên, còn tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo” do dự án không thực hiện đúng cam kết, một số địa phương chưa quyết liệt trong việc thu hồi diện tích đất chưa sử dụng, chưa thu hút được nhà đầu tư phát triển hạ tầng KCN và gặp khó khăn trong thu hút dự án đầu tư thứ cấp dẫn đến lãng phí nguồn lực đất đai.
Đất sử dụng vào mục đích phát triển hạ tầng, cả nước hiện có 1.341,91 nghìn ha, chiếm 34,14% diện tích nhóm đất phi nông nghiệp của cả nước, tăng 160,48 nghìn ha so với năm 2010 (bình quân tăng 16 nghìn ha/năm). Qua rà soát quy hoạch, đầu tư xây dựng các dự án thủy điện và vận hành khai thác các công trình thủy điện trên địa bàn cả nước, đã loại khỏi quy hoạch 6 dự án thủy điện bậc thang và 418 dự án thủy điện nhỏ do hiệu quả thấp và có nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường, xã hội; không xem xét quy hoạch 172 vị trí tiềm năng thủy điện; tạm dừng có thời hạn 136 dự án; tiếp tục rà soát, đánh giá 158 dự án.
Hiện nay, cả nước có 3 khu công nghệ cao (KCNC) là: Hòa Lạc; Đà Nẵng và TP. Hồ chí Minh) có tổng diện tích 3,63 nghìn ha; được xây dựng quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết và đang đi vào hoạt động. KCNC Hòa Lạc đã giao cho Ban quản lý 1.530 ha đất để xây dựng KCNC (còn khoảng 241 ha chưa được GPMB). Khoảng 1/4 diện tích đất đã GPMB được đưa vào sử dụng với tổng diện tích khoảng 240 ha. Hiện nay, hạ tầng kỹ thuật khu vực phía Bắc Đại lộ Thăng Long đã được đầu tư cơ bản đồng bộ, hạ tầng kỹ thuật khu vực phía Nam Đại lộ Thăng Long đã đầu tư được khoảng 20% hạ tầng kỹ thuật theo quy hoạch. KCNC TP. Hồ Chí Minh được đánh giá đạt hiệu quả cao về đầu tư, SDĐ đai với tỷ lệ lấp đầy trên 90%. Tính đến nay, KCNC TP. Hồ Chí Minh đã cấp chứng nhận đầu tư cho 156 dự án với tổng vốn đầu tư đạt khoảng 7,136 tỷ USD, trong đó có 73 dự án đã đi vào hoạt động ổn định với tổng giá trị xuất khẩu lũy kế đạt khoảng 45,456 tỷ USD, đóng góp khoảng 94% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của TP. Hồ Chí Minh. KCNC Đà Nẵng đã thu hút được tổng cộng 22 dự án với diện tích đất sử dụng 107,98 ha/329,96 ha (chiếm 32,73%); trong đó có 12 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư là 6.219 tỷ VNĐ (chiếm tỷ lệ 38,5% tổng vốn đầu tư vào KCNC); 10 dự án FDI có tổng vốn đầu tư 400,1 triệu USD (chiếm tỷ lệ 61,5% tổng vốn đầu tư vào KCNC).
Cả nước có 43 khu kinh tế (KKT), với tổng diện tích là 1.582,97 nghìn ha (trong đó có 345,18 nghìn ha đất mặt nước), chiếm 4,78% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, có 16 KKT ven biển, 26 KKT cửa khẩu. Tỷ lệ thu hồi, GPMB và khả năng thu hút đất tư trong các KKT đặc biệt là các KKT cửa khẩu còn rất thấp, do mô hình tổ chức quản lý KKT bộc lộ một số bất cập, chưa phân định rõ sự gắn kết trong quản lý trực tiếp theo địa giới hành chính với hệ thống chính quyền, sự đan xen về thẩm quyền và trách nhiệm trong quản lý đầu tư, xây dựng, đất đai,...
Năm 2020, cả nước có 2.028 nghìn ha đất đô thị, chiếm 6,12% tổng diện tích tự nhiên. Thời kỳ 2011 - 2020, đất đô thị tăng thêm 125,27 nghìn ha, bình quân tăng 25,05 nghìn ha/năm. Tuy nhiên, đất đô thị tăng phần lớn do các quyết định hành chính và nhanh hơn so với yêu cầu của phát triển kinh tế, nên còn tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo”, đất bỏ hoang, chậm đưa vào sử dụng.
Có thể thấy, còn tồn tại tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo” trong thời gian vừa qua là do QH, KHSDĐ phụ thuộc vào phương hướng, mục tiêu phát triển KT-XH của địa phương và trung ương, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp. Việc thực hiện quy hoạch và thu hút đầu tư, nguồn vốn để thực hiện các công trình, dự án; một số công trình, dự án cấp quốc gia sử dụng vốn từ ngân sách trung ương chưa triển khai hoặc triển khai chưa đúng tiến độ như Sân bay quốc tế Long Thành, một số tuyến đường cao tốc Bắc - Nam, đường vành đai ven biển, đường vành đai vùng kinh tế trọng điểm, các trường đại học,... ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện QH, KHSDĐ.
Còn có nguyên nhân do việc đánh giá, dự báo nhu cầu SDĐ của một số công trình, dự án trong kỳ QH, KHSDĐ chưa sát với thực tiễn của đất nước ta. Chất lượng QHSDĐ còn hạn chế, tính khả thi chưa cao do thiếu những luận cứ mang tính khoa học nên việc xác định chỉ tiêu, quy mô diện tích một số công trình, dự án trong QH, KHSDĐ còn cao so với khả năng thực hiện của địa phương. Quy hoạch xây dựng, quy hoạch các KCN, đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, quy hoạch xây dựng nông thôn mới chưa thống nhất và tuân thủ theo QH, KHSDĐ. Việc quy hoạch và phát triển các KCN còn thiếu sự thống nhất trên quy mô liên vùng, liên tỉnh; chưa xem xét đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn, hạ tầng KT-XH; việc bố trí đất đai cho các KCN nhiều nơi còn chưa hợp lý; việc phát triển nhanh các KCN ở một số địa phương trong thời gian qua đã tạo sức ép không nhỏ đối với môi trường, hạ tầng xã hội phục vụ công nhân KCN.
Dự án “treo”, quy hoạch “treo” là hậu quả của việc thiếu các giải pháp có tính khả thi để thực hiện QHSDĐ, đặc biệt là không cân đối đủ nguồn vốn đầu tư ngân sách của các địa phương trong khi nhu cầu vốn đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật là rất lớn; mất nhiều thời gian bồi thường, GPMB, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước THĐ ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án đã được phê duyệt trong quy hoạch. Việc quản lý SDĐ theo các chỉ tiêu quy hoạch đã được phê duyệt chưa được kiểm tra, đánh giá, giám sát một cách toàn diện, nghiêm túc. Công tác giám sát mới chỉ chủ yếu thông qua báo cáo của các cơ quan chuyên môn. Nguồn lực, các phương tiện kỹ thuật, công cụ phục vụ cho công tác giám sát còn bất cập, lạc hậu. Chưa ứng dụng rộng rãi công nghệ cao trong việc giám sát thực hiện QH, KHSDĐ nhằm đảm bảo tính khách quan. Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ chuyên môn về quản lý QH, KHSDĐ sau khi được duyệt ở một số địa phương còn thiếu và có nhiều hạn chế dẫn đến vẫn còn tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo”, hoang hóa đất đai, chậm đưa đất vào sử dụng, vi phạm QH, KHSDĐ trong giao đất, thuê đất, chuyển mục đích SDĐ.
Giải bài toán quy hoạch treo, dự án “treo”
Theo quy định tại khoản 3 Điều 49 Luật Đất đai năm 2013 (LĐĐ) “Diện tích đất ghi trong KHSDĐ hàng năm của cấp huyện đã được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích SDĐ mà sau 3 năm chưa có quyết định THĐ hoặc chưa được phép chuyển mục đích thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt KHSDĐ phải điều chỉnh, hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ việc thu hồi hoặc chuyển mục đích đối với phần diện tích đất ghi trong KHSDĐ.” Quốc hội quyết định các chỉ tiêu sử dụng các loại đất này trong QHSDĐ cấp quốc gia và phân bổ đến từng địa phương và quy định cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích SDĐ trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ. Việc chuyển mục đích SDĐ phải được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ hoặc trình HĐND cấp tỉnh thông qua chủ trương tùy theo quy mô SDĐ. Pháp luật đã có quy định về biện pháp tài chính đối với các dự án đầu tư chậm hoặc bỏ hoang không đưa đất vào sử dụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.
Để kiểm tra việc quản lý, SDĐ, khắc phục tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo”, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản, như: Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 3/01/2018 chỉ đạo các địa phương kiểm tra, rà soát, xử lý đối với các dự án vi phạm chậm tiến độ SDĐ, để đất hoang hóa, lãng phí; Công văn số 22/TTg-CN ngày 9/3/2018 về kiểm tra việc quản lý, SDĐ đối với các dự án khu đô thị, khu du lịch nghỉ dưỡng có quy mô lớn; Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 27/7/2015 về việc tăng cường công tác quản lý về quy hoạch, đầu tư xây dựng và quản lý đất đai các dự án ven biển nhằm đảm bảo khai thác hiệu quả, bền vững quỹ đất ven biển, ứng phó, thích nghi với BĐKH, nước biển dâng.
Kế hoạch SDĐ hàng năm cấp huyện đã trở thành căn cứ quan trọng, bắt buộc, để Nhà nước thực hiện thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích SDĐ. Nhà nước đã thực hiện thống nhất quản lý đất đai qua công cụ QH, KHSDĐ triển khai đồng bộ ở các cấp. Diện tích đất chưa sử dụng cơ bản đã được đưa vào sử dụng. Chuyển dịch cơ cấu SDĐ để đáp ứng kịp thời cho các mục tiêu phát triển KT-XH, QP-AN đã được thực hiện thông qua QH, KHSDĐ, quỹ đất được phân bổ. Để từng bước đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhu cầu đô thị hóa, quỹ đất dành cho công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị được mở rộng, trong khi vẫn đảm bảo quỹ đất nông nghiệp đã đáp ứng yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ và phát triển rừng.
Kể từ khi LĐĐ có hiệu lực đến nay, việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích SDĐ từng bước đã tiếp cận cơ chế thị trường, bình đẳng hơn giữa các chủ thể sử dụng, cơ bản đáp ứng đầy đủ yêu cầu SDĐ cho phát triển KT-XH của địa phương. Để khắc phục tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo”, các địa phương đã thực hiện giao đất thông qua đấu giá, sàng lọc các nhà đầu tư kém năng lực, góp phần hạn chế đáng kể việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích SDĐ tràn lan, sử dụng kém hiệu quả, để hoang hóa.
Thực hiện Nghị quyết số 134/2016/QH13, đã có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 701/724 đơn vị hành chính cấp huyện (đạt 96,82% số lượng) hoàn thành công tác lập QHSDĐ đến năm 2020 và KHSDĐ 5 năm (2011 - 2015); đồng thời Chính phủ đã phê duyệt QHSDĐ quốc phòng, đất an ninh đến năm 2020 và KHSDĐ 5 năm (2011 - 2015). Chính phủ đã ban hành Nghị định số 148/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết LĐĐ nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc lập QH, KHSDĐ theo quy định của Luật Quy hoạch; tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc xác định hình thức giao đất, cho thuê đất đối với đất các thửa đất nhỏ hẹp do nhà nước quản lý, các trường hợp miễn tiền SDĐ, tiền thuê đất; tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc cấp giấy đối với các dự án phát triển nhà ở; sửa đổi, bổ sung một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước THĐ.
Nội dung QH, KHSDĐ (gồm các chỉ tiêu QH, KHSDĐ trồng lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; các dự án công trình thực hiện trong kỳ QH, KHSDĐ trồng lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng) đã xác định ranh giới và công khai diện tích đất trồng lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng cần bảo vệ nghiêm ngặt. Diện tích đất trồng lúa được quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, bảo đảm khi cần thiết có thể quay lại trồng lúa được đã được giao cho các địa phương tổ chức quản lý chặt chẽ. Bản đồ QHSDĐ đến năm 2020 của cấp tỉnh, cấp huyện đã khoanh định cụ thể ranh giới các khu vực cần bảo vệ nghiêm ngặt và được công khai theo đúng quy định của pháp luật. Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương chuyển mục đích đất trồng lúa để thực hiện các dự án đầu tư, “Thử nghiệm xác định ranh giới và công khai diện tích đất trồng lúa nước cần bảo vệ nghiêm ngặt” trên địa bàn một số huyện thuộc các tỉnh: Phú Thọ, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hóa, Bình Định, Đắk Lắk, Tây Ninh, Long An, An Giang theo quy định tại LĐĐ, Nghị định số 42/2012/NĐ-CP về quản lý SDĐ trồng lúa, Nghị định số 35/2015/NĐ-CP về quản lý, SDĐ trồng lúa; Bộ TN&MT đã ban hành Thông tư số 17/2014/TT-BTNMT hướng dẫn việc xác định ranh giới, diện tích và xây dựng cơ sở dữ liệu đất trồng lúa.
Để quản lý, giám sát chặt chẽ quy hoạch phát triển các KKT, KCN, CCN, đất cơ sở sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, hạn chế tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo”, đã đưa ra khỏi quy hoạch 27 KCN; giảm quy mô diện tích 79 KCN đã được thành lập; mở rộng quy mô 41 KCN; bổ sung 18 KCN và đồng thời rà soát, lựa chọn để tập trung đầu tư phát triển các KKT trọng điểm (8/16 KKT ven biển và 9/26 KKT cửa khẩu) theo Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 2/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh công tác quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của các KKT, KCN, CCN nhằm đảm bảo SDĐ ngày càng tiết kiệm và hiệu quả hơn.
Việc sàng lọc các dự án đầu tư để khắc phục tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo” cũng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo đề án rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển KKT ven biển, KKT cửa khẩu Việt Nam đến năm 2020; đề án rà soát, xây dựng tiêu chí lựa chọn một số KKT ven biển để tập trung đầu tư giai đoạn 2013 - 2015; lựa chọn một số KKT ven biển để tập trung đầu tư phát triển từ nguồn NSNN giai đoạn 2016 - 2020; lựa chọn KKT cửa khẩu để tập trung đầu tư giai đoạn 2013 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020. Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương rà soát các KCN, nhằm cắt giảm các KCN sử dụng nhiều đất canh tác tại khu vực đồng bằng, nhưng đến nay vẫn chưa kêu gọi được nhà đầu tư để khắc phục tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo”, nâng cao hiệu quả KT-XH, phát huy lợi thế cạnh tranh.
Để tăng cường quản lý việc thực hiện QH, KHSDĐ, khắc phục tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo”, ngày 3/1/2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 01/CT-TTg về chấn chỉnh, tăng cường công tác quản lý đất đai và xây dựng hệ thống thông tin đất đai, yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố thực hiện từng nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để khắc phục tồn tại, hạn chế, sai phạm và chấn chỉnh lại việc thi hành Luật Đất đai ở địa phương, thanh tra, kiểm tra đột xuất việc quản lý và sử dụng đất các dự án có sử dụng nhiều quỹ đất,... kiểm tra các dự án du lịch, nghỉ dưỡng có loại hình condotel, oficetel,... các dự án có vi phạm được dư luận, báo chí phản ánh,... Các địa phương thiết lập đường dây nóng phản ánh tình hình sai phạm về quản lý, SDĐ đai; công bố, công khai các thông tin liên quan đến vi phạm pháp luật đất đai và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động quản lý và SDĐ đai; tổ chức thực hiện việc tiếp nhận và xử lý thông tin phản ánh của người dân về vi phạm trong quản lý và SDĐ; tổng hợp các trường hợp vi phạm pháp luật đất đai đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ TN&MT, trang web của Tổng cục Quản lý đất đai.
Trong giai đoạn từ năm 2015 - 2020, toàn ngành TN&MT đã tiến hành hơn 2.500 cuộc thanh tra, kiểm tra về đất đai trên địa bàn cả nước; qua đó đã phát hiện các trường hợp vi phạm trong quản lý, SDĐ, trong đó, các vi phạm chủ yếu liên quan tới dự án “treo”, quy hoạch “treo”, không SDĐ hoặc tiến độ thực hiện dự án chậm so với tiến độ ghi trong dự án được duyệt; SDĐ không đúng mục đích,... kiến nghị xử lý thu hồi gần 25 nghìn ha diện tích đất sai phạm.
Giải pháp khắc phục tình trạng dự án treo, quy hoạch “treo”
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về đất đai, phát huy tốt tiềm năng, nguồn lực đất đai cho phát triển KT-XH, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô trên cơ sở triển khai thực hiện tốt QHSDĐ theo Nghị quyết của Quốc hội; trong thời gian tới cần tập trung chỉ đạo và triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp để khắc phục tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo”. Cụ thể:
Công tác dự báo nhu cầu SDĐ cần được tăng cường, nâng cao chất lượng. Công tác lập, quản lý, tổ chức thực hiện và giám sát QH, KHSDĐ thống nhất chặt chẽ đảm bảo cân đối tổng thể giữa bảo tồn và phát triển, giữa các thế hệ và giữa các bên liên quan, có tầm nhìn dài hạn, khả thi trong thực hiện, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, đảm bảo QP-AN. Tránh quy hoạch “treo” không thực hiện được hoặc việc bố trí quỹ đất cho các mục đích sử dụng chưa phù hợp với nhu cầu thực tế do không lường hết những khó khăn trong quá trình thi công GPMB, huy động vốn đầu tư. QHSDĐ cần xác định rõ các hạng mục ưu tiên, nguồn vốn khả thi để thực hiện các công trình, dự án có SDĐ đảm bảo đúng tiến độ, trên nguyên tắc phân bổ hợp lý, SDĐ tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên và BVMT, thích ứng với BĐKH, bảo vệ tôn tạo di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và đảm bảo an ninh lương thực.
Tăng cường công tác giám sát việc tổ chức lập, điều chỉnh và thực hiện QH, KHSDĐ 5 năm cấp tỉnh, QHSDĐ và KHSDĐ hàng năm cấp huyện. QH, KHSDĐ cần thực hiện theo đúng quy trình. QHSDĐ quốc gia phải thể hiện nội dung, phân bổ chỉ tiêu SDĐ cho quy hoạch tỉnh, quy hoạch tỉnh phải thể hiện nội dung, phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cho QHSDĐ cấp huyện. Quy hoạch phải được lập từ tổng thể đến chi tiết; QHSDĐ cấp dưới phù hợp quy hoạch với cấp trên, cũng như đảm bảo đảm tính đặc thù, chứa đựng yếu tố liên ngành, liên vùng để tránh tình trạng phát triển mang tính cục bộ, dàn trải địa phương.
Đẩy mạnh việc đấu giá QSDĐ để khắc phục tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo”. Tổ chức giám sát chặt chẽ quỹ đất được quy hoạch phát triển đô thị, KCN,CCN, đất cơ sở sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp nhằm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả quỹ đất, khắc phục tình trạng hoang hóa, chậm đưa đất vào sử dụng. Quy hoạch của các ngành, lĩnh vực có SDĐ phải thống nhất với QH, KHSDĐ. Quản lý, SDĐ theo đúng QH, KHSDĐ được duyệt, nhất là các khu vực sẽ chuyển mục đích sử SDĐ để tập trung cho phát triển kinh tế và chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển dịch vụ, đô thị để tăng nguồn thu cho ngân sách.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý dứt điểm các trường hợp dự án “treo”, quy hoạch “treo”, bỏ hoang, chậm đưa đất vào sử dụng, lấn chiếm đất trái phép, chuyển mục đích SDĐ không theo quy hoạch. Tăng cường công tác giám sát của các đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, HĐND các cấp trong việc tổ chức lập, thẩm định và thực hiện QH, KHSDĐ tại địa phương; giám sát dự án treo, quy hoạch treo, bỏ hoang, chậm đưa đất vào sử dụng, quá trình chuyển mục đích sử dụng từ đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng; việc SDĐ để thực hiện dự án theo đúng QH, KHSDĐ đã được phê duyệt, đảm bảo đúng quy định của pháp luật, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, SDĐ đai.
Tiếp tục rà soát, đánh giá một cách toàn diện thực trạng SDĐ và môi trường trong các KCN, CCN, khu chế xuất, KCNC và KKT làm cơ sở điều chỉnh quy hoạch các KCN, CCN, KCX, KCNC, KKT đảm bảo tính liên vùng, liên tỉnh trong cả nước và phù hợp QH, KHSDĐ từng thời kỳ, không để dự án “treo”, quy hoạch “treo”, bỏ trống đất đai gây lãng phí tài nguyên; không phát triển KCN, CCN, KCX, KCNC, KKT khi chưa đảm bảo tỷ lệ lấp đầy theo quy định.
Phát triển KCN, KKT với số lượng và quy mô phù hợp với điều kiện phát triển thực tế của địa phương, tránh tình trạng dự án “treo”, quy hoạch “treo”, đảm bảo hiệu quả SDĐ KCN, KKT; hạn chế phát triển KCN trên đất lúa có năng suất ổn định.
Cần rà soát QHSDĐ đô thị theo hướng bố trí SDĐ hợp lý, bảo đảm đồng bộ hạ tầng kỹ thuật với hạ tầng xã hội; nâng cao hệ số sử dụng đặc biệt là các đô thị sử dụng đất lúa. Hạn chế việc thực hiện các dự án nhà ở nhỏ lẻ tại các thành phố. Các công trình xây dựng tại các đô thị cần triệt để khai thác không gian ngầm và trên cao để tiết kiệm đất.
Củng cố hệ thống cơ quan QLNN, nâng cao năng lực giám sát bằng hệ thống thông tin đất đai hiện đại, đồng bộ, thống nhất, tập trung, đa mục tiêu. Đẩy mạnh cải cách TTHC trong QLNN về đất đai. Tăng cường công tác giám sát của Quốc hội, HĐND và công tác thanh tra, kiểm tra của Chính phủ, quản lý của bộ ngành, các địa phương trong công tác lập và thực hiện QH, KHSDĐ. Thực hiện công khai QH, KHSDĐ theo quy định của pháp luật. Sớm xây dựng hệ thống giám sát, đánh giá và tăng cường năng lực cho các cơ quan, đơn vị lập QH, KHSDĐ. Tăng cường giám sát của người dân và cộng đồng xã hội thông qua đổi mới phương pháp, nội dung công bố thông tin về QH, KHSDĐ để người dân thuận tiện trong việc sử dụng và tham gia giám sát. NSNN bảo đảm bố trí đủ kinh phí thường xuyên cho hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện QH, KHSDĐ và cho việc duy trì, vận hành hệ thống thông tin CSDL đất đai quốc gia trong đó có CSDL về QH, KHSDĐ. Xây dựng và ban hành các chế tài xử lý các vi phạm trong việc quản lý và thực hiện QH, KHSDĐ đã được duyệt. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật về đất đai, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về quyền và nghĩa vụ SDĐ, thông qua đó tạo ra sự đồng thuận cao trong việc tổ chức thực hiện QH, KHSDĐ. Phát huy vai trò của các cấp ủy Đảng, tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong tham gia đóng góp và giám sát việc thực hiện QH, KHSDĐ.
PGS.TS. NGUYỄN ĐÌNH THỌ
Viện trưởng, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
PGS.TS. MAI THU HIỀN
Trường Đại học Ngoại Thương