
Nhận diện khó khăn, thách thức
Tại Hội nghị triển khai các nhiệm vụ trọng tâm năm 2021, Tổng cục B&HĐ sẽ triển khai 6 nhóm nhiệm vụ chủ yếu: Công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật; thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; triển khai thực hiện Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản TN,MT B&HĐ đến năm 2030; thực hiện nhiệm vụ lập Quy hoạch không gian biển quốc gia; nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; tăng cường năng lực cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác QLTH TN,MT B&HĐ; một số nhiệm vụ khác liên quan đến đường mép nước biển thấp nhất trung bình nhiều năm và đường ranh giới ngoài, quản lý hồ sơ tài nguyên hải đảo, thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển, công tác khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế, tổ chức cán bộ.
Cũng tại Hội nghị, Tổng cục B&HĐ Việt Nam đã thẳng thắn đưa ra những khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị với lãnh đạo Bộ trong việc triển khai từng nhiệm vụ của Tổng cục. Nổi bật nhất là các khó khăn, vướng mắc do lĩnh vực B&HĐ còn khá mới, phức tạp, nhạy cảm, có sự giao thoa, chồng chéo với nhiều lĩnh vực khác nên hệ thống pháp luật phải được tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện. Cơ chế điều phối liên ngành về phát triển bền vững kinh tế biển đang bước đầu hình thành và chưa phát huy hiệu quả; nguồn vốn để thực hiện các chủ trương, giải pháp và khâu đột phá nêu tại Nghị quyết số 36 - NQ/TW và các đề án, dự án, nhiệm vụ nêu tại Nghị quyết số 26/NQ - CP còn hạn chế. Cũng như nhân sự, nguồn lực và cơ chế phối hợp để thực hiện tốt nhiệm vụ Văn phòng Cơ quan thường trực Ủy ban chỉ đạo quốc gia cần được tăng cường.
Bên cạnh đó, những khó khăn, vướng mắc trong việc bố trí kinh phí, cả nguồn kinh phí được cấp hàng năm cho một số nhiệm vụ, dự án chuyển tiếp sang Chương trình trọng điểm hiện đang triển khai thực hiện và kinh phí chuẩn bị đầu tư cho một số dự án thực hiện trong giai đoạn 2021-2025 thuộc Chương trình tăng cường năng lực và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quản lý tài nguyên, môi trường B&HĐ đến năm 2030. Những khó khăn, phức tạp trong khi xây dựng các nhiệm vụ, dự án mang tính liên ngành để đảm bảo nguyên tắc kế thừa, không trùng lặp. Những khó khăn do còn thiếu quy chế phối hợp quản lý thực hiện cũng như việc một số cơ quan, đơn vị chủ trì thực hiện dự án còn nhiều hạn chế về năng lực triển khai thực hiện như: Nhân lực, phương tiện, trang thiết bị ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ, chất lượng các dự án. Những khó khăn tồn tại trong việc lập dự toán, đơn giá, định mức còn một số bất cập, không phù hợp thực tế, việc giải mật đối với các tài liệu, hồ sơ liên quan đến quy hoạch dẫn đến việc triển khai lập Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đang chậm so với Kế hoạch đã được Bộ trưởng Bộ TN&MT phê duyệt,…
Ngoài ra, Tổng cục cũng gặp phải những khó khăn về số biên chế vẫn bị cắt giảm, năng lực, chất lượng cán bộ còn hạn chế cũng như những thách thức liên quan đến dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp trên toàn thế giới đã ảnh hưởng lớn đến việc triển khai nhiều nhiệm vụ, kế hoạch, chương trình, hoạt động hợp tác quốc tế,… ảnh hưởng lớn tới kết quả thực hiện nhiệm vụ của Tổng cục.
Phối hợp để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ
Thứ trưởng Lê Minh Ngân yêu cầu Tổng cục cần tiếp tục tập trung trong công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, khẩn trương thực hiện các bước cuối cùng để hoàn thiện các Nghị định thay thế Nghị định số 51/2014/NĐ - CP quy định giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển; Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLTH tài nguyên, BVMT B&HĐ; Nghị định quy định về thế chấp, cho thuê, góp vốn, chuyển nhượng quyền sử dụng khu vực biển được giao để nuôi trồng thủy sản; bồi thường khi Nhà nước thu hồi khu vực biển được giao để nuôi trồng thủy sản vì mục đích công cộng, QP-AN và tiến hành xây dựng Nghị định quy định về hoạt động lấn biển.
Đối với nhiệm vụ quan trọng lập Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đây là nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp liên ngành, liên vùng. Thứ trưởng yêu cầu Tổng cục cần bám sát theo yêu cầu của nhiệm vụ, đi sâu vào các tiêu chí về kinh tế trong đó cần tổng hợp số liệu thống kê của các ngành kinh tế biển; các tiêu chí về an ninh quốc phòng; các tiêu chí về BVMT, hệ sinh thái biển,… Cần có được sự chỉ đạo thống nhất cũng như sự phối hợp chặt chẽ, đầu tư trí tuệ, chất xám cao nhất của các cơ quan trong và ngoài Bộ, các ngành, địa phương và các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức trong nước và quốc tế.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, nhiệm vụ đặt ra cho Tổng cục là hết sức khó khăn, dù đã có Luật TN,MT B&HĐ, Luật Biển Việt Nam, Nghị quyết số 36-NQ/TW, thể hiện trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, các nhà khoa học nhưng việc triển khai những chủ trương lớn này không hề dễ dàng. Bộ trưởng đề nghị Tổng cục tiếp tục giữ vững ý chí đoàn kết, nỗ lực giải quyết từng nhiệm vụ cụ thể, ưu tiên đặt ra trên cơ sở khoa học biện chứng, tập hợp trí tuệ cùng với ý thức, trách nhiệm và tinh thần cầu thị, thể hiện được vai trò QLTH tài nguyên môi trường về B&HĐ đồng thời tận dụng được vai trò thống nhất, điều phối của Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Lãnh đạo Bộ đã đưa ra định hướng đối với các nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới của Tổng cục. Trong đó, nhiệm vụ lập Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ cần có phương pháp luận phù hợp nhất, thổi hồn vào quy hoạch là các bộ tiêu chí, số liệu để giải quyết được ma trận tiêu chí về QP-AN, môi trường, kinh tế. Và để thực hiện được bài toán về tiêu chí, thì trên hết phải có số liệu từ công tác điều tra cơ bản, đây là nhiệm vụ mà Tổng cục cần tập trung chú trọng đầu tiên và phải thực hiện một cách hiệu quả thông qua việc thể chế hoá việc điều phối, xác định các ưu tiên, đưa ra lộ trình cụ thể đối với công tác điều tra cơ bản để làm nền tảng, cơ sở giải quyết các khó khăn cho bài toán quy hoạch và các nhiệm vụ triển khai tiếp theo.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, việc thể chế hoá thông qua quy trình, quy phạm, định mức thống nhất, xác định được trình tự ưu tiên cho điều tra cơ bản để tránh lãng phí đồng thời phối hợp với các ngành là thể hiện cao nhất công tác điều phối và cùng với việc xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu và chia sẻ thông tin tài nguyên B&HĐ trên cơ sở kiến trúc chung của hệ cơ sở dữ liệu TN,MT có thể coi là tài sản có giá trị nhất cho công tác QLTH TN,MT B&HĐ.
Bộ trưởng đề nghị Tổng cục cần tập trung xây dựng năng lực giám sát và quan trắc thông qua các trạm quan trắc, hệ thống giám sát viễn thám, radar, mỗi con tàu ra khơi và chính mỗi người dân, những thành trì sống trong việc bảo vệ biển đảo, thực thi công tác QLNN về B&HĐ một cách đầy đủ và hiệu quả. Bộ trưởng cũng lưu ý Tổng cục những vấn đề ưu tiên cụ thể, đặc biệt là về năng lượng biển, sạt lở bờ biển, nhận chìm, rác thải nhựa đại dương đặc biệt là vấn đề về các khu bảo tồn biển, bảo tồn phải gắn với phát triển, cần có tư tưởng lớn hơn nữa về lấn biển đồng thời tăng cường hơn nữa các chương trình truyền thông, xây dựng văn hoá biển, hợp tác quốc tế. Trên cơ sở những các nhóm nhiệm vụ đã thống nhất, Bộ trưởng yêu cầu Tổng cục cân nhắc kỹ, tổ chức phân công, lên kế hoạch, phương án thực hiện cụ thể đặc biệt là phối hợp cùng với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Bộ để hoàn thành theo đúng các mốc thời gian cụ thể, gắn với những thời điểm yêu cầu phù hợp của từng văn bản.
BÍCH LOAN
Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam