Triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp: Bước tiến chiến lược trong tái cơ cấu nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long

Thứ tư, 3/12/2025, 22:17 (GMT+7)
logo Ngày 27/11/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1490/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 (Đề án). Đây là Đề án có ý nghĩa chiến lược, nhằm tái cơ cấu sản xuất lúa gạo, nâng cao thu nhập cho nông dân, đồng thời khẳng định vai trò và trách nhiệm của Việt Nam trong thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính. Để hiểu rõ hơn về hiệu quả bước đầu của Đề án, phóng viên Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó cục Trưởng cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật

Phóng viên: Xin ông cho biết, sau 2 năm triển khai đề án 1 triệu ha lúa phát thải thấp, ông đánh giá như thế nào về tính hiệu quả của đề án này?

img_0308_1764747465.webp
Ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó cục Trưởng cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật

Ông Nguyễn Quốc Mạnh: Sau hai năm triển khai, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp đã tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong sản xuất lúa vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thể hiện trên cả ba phương diện: kỹ thuật, môi trường và kinh tế – xã hội. Đây là cơ sở quan trọng để thúc đẩy chuyển đổi sang nền nông nghiệp giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trước hết, nhận thức và tập quán canh tác của nông dân đã thay đổi rõ rệt. Nhiều địa phương chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất theo vùng nguyên liệu; áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật như giảm lượng giống gieo sạ, bón phân hợp lý, tưới ngập khô xen kẽ, quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và cơ giới hóa. Nhờ đó, vật tư đầu vào giảm, năng suất và chất lượng lúa tăng lên. Kết quả tại 11 mô hình thí điểm cho thấy năng suất tăng bình quân 5,1 tạ/ha và giá thành sản xuất lúa giảm từ 326–1.052 đồng/kg so với ngoài mô hình.

Về môi trường, mô hình ghi nhận mức giảm phát thải trung bình 3–6 tấn CO₂e/ha/vụ; 100% diện tích thí điểm đã thu gom rơm rạ ra khỏi ruộng, hạn chế phát thải khí CH₄ từ đốt rơm rạ và góp phần cải thiện chất lượng môi trường nông nghiệp. Kết quả này khẳng định tính khả thi của lộ trình giảm phát thải trong sản xuất lúa, lĩnh vực vốn là nguồn phát thải CH₄ lớn của Việt Nam.

Trên phương diện kinh tế – xã hội, Đề án đã thúc đẩy tổ chức lại sản xuất theo hướng hiện đại và liên kết hơn. Toàn bộ hộ tham gia mô hình sản xuất thông qua hợp tác xã; liên kết doanh nghiệp – HTX – nông dân được củng cố, hình thành vùng nguyên liệu lúa xanh có khả năng truy xuất nguồn gốc đạt chuẩn thị trường quốc tế. Đến cuối tháng 10/2025, diện tích nhân rộng đạt hơn 235.000 ha, vượt gần 197% mục tiêu ban đầu của Đề án. Đặc biệt, đã có hơn 19.000 tấn gạo được chứng nhận “gạo Việt xanh phát thải thấp”, trong đó 500 tấn lần đầu tiên xuất khẩu sang Nhật Bản.

Mặc dù còn một số khó khăn về hạ tầng, năng lực hợp tác xã và biến động thị trường, các kết quả bước đầu cho thấy Đề án đi đúng hướng, mang lại hiệu quả thực chất và hoàn toàn khả thi để đạt mục tiêu 1 triệu ha vào năm 2030. Đây là bước tiến quan trọng trong thực hiện mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực, giảm phát thải khí nhà kính và phát triển nền nông nghiệp xanh, bền vững và có trách nhiệm.

z7287168217374_d48924b3479d5d4f39ec3b230cd38534_1764747586.webp
Sau hai năm triển khai, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp đã tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong sản xuất lúa vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Phóng viên: Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật có kế hoạch gì để kiểm soát tốt hơn việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và chất kích thích sinh trưởng nhằm bảo đảm tiêu chí lúa phát thải thấp? Các giải pháp kỹ thuật hoặc quy định nào sẽ được áp dụng để giúp nông dân giảm hóa chất mà vẫn bảo vệ được cây trồng?

Ông Nguyễn Quốc Mạnh: Để kiểm soát vật tư đầu vào và bảo đảm tiêu chí lúa phát thải thấp, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý và kỹ thuật, tập trung vào giảm hóa chất, tăng sử dụng sinh học và chuẩn hóa quy trình canh tác. Giảm dần lượng thuốc BVTV hóa học; ưu tiên thuốc sinh học, thuốc chọn lọc, thuốc thế hệ mới ít độc – ít phát thải. Chỉ sử dụng thuốc BVTV khi dịch hại đạt ngưỡng phòng trừ; giảm số lần phun hạn chế phát thải từ hóa chất và nhiên liệu.

Trong giải pháp kỹ thuật và quản lý chúng tôi đã áp dụng biện pháp IPM trong phòng, chống sinh vật gây hại cây trồng; tăng cường công tác điều tra, giám sát, dự tính và dự báo dịch hại bằng nền tảng số, bẫy đèn, bẫy pheromone và cảm biến đồng ruộng, giúp nông dân chỉ phun thuốc BVTV khi thật cần thiết, tránh phun phòng ngừa tràn lan, gây lãng phí và tăng phát thải. Kết hợp biện pháp sinh học và canh tác: điều chỉnh thời vụ, luân – xen canh, ưu tiên sử dụng thuốc BVTV sinh học nhằm giảm áp lực dịch hại, từ đó giảm dần lượng thuốc BVTV hoá học. Chuẩn hóa quy trình sử dụng thuốc BVTV, áp dụng nguyên tắc sử dụng thuốc theo “4 đúng” (đúng thuốc – đúng lúc – đúng liều – đúng cách); khuyến khích sử dụng các dạng chế phẩm ít dung môi, hạn chế bay hơi và phát tán vào môi trường. Mở rộng ứng dụng công nghệ phun thuốc bằng máy bay không người lái (drone) để giảm lượng thuốc và tăng độ chính xác và giảm tiếp xúc của người lao động. Rà soát, loại bỏ khỏi Danh mục các thuốc BVTV có nguy cơ cao đối môi trường, sức khoẻ con người và hệ sinh thái. Tiếp tục đôn đốc các địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội thực hiện Đề án phát triển thuốc BVTV sinh học đến năm 2030, tầm nhìn 2050. Tăng cường kiểm tra thị trường, xử lý nghiêm hành vi vi phạm; tổ chức tập huấn cho nông dân về sử dụng thuốc BVTV an toàn và hiệu quả.

Trong thời gian thực hiện đề án, Cục đã triển khai chương trình phát triển sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ, sử dụng phân bón tiết kiệm, hiệu quả với sự tham gia của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phân bón trong cả nước. Các doanh nghiệp đã đào tạo hàng nghìn nông dân về sử dụng phân bón toàn, hiệu quả; Các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ, sử dụng phân bón tiết kiệm được triển khai trên 9 nhóm cây trồng chủ lực (lúa, cà phê, cao su, điều, hồ tiêu, chè, cây ăn quả, rau, sắn) tại các địa phương và đem lại hiệu quả tích cực như giảm lượng phân bón, tăng thu nhập cho người nông dân. Đã tham mưu và trình Bộ phê duyệt “Đề án phát triển sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050”, “Đề án nâng cao sức khỏe đất và quản lý dinh dưỡng cây trồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” với nhiều mục tiêu như cân đối dinh dưỡng vô cơ-hữu cơ để duy trì và nâng cao sức khỏe đất phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững nhằm tạo ra sản phẩm nông nghiệp an toàn, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính. Phối hợp với Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) xây dựng, cập nhật Sổ tay hướng dẫn sử dụng phân bón cho lúa và các cây trồng khác và thực hiện Dự án “Sử dụng phân bón đúng” tại Việt Nam - Dự án này thuộc chương trình “Thách thức phân bón toàn cầu” do Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ tài trợ với mục tiêu nâng cao hiệu quả, hiệu suất sử dụng phân bón, tăng thu nhập cho nông dân và giảm phát thải khí nhà kính trong trồng lúa từ việc sử dụng phân bón đúng; Phát triển, đánh giá các giải pháp thay thế cho phân bón hóa học để cải thiện sức khỏe và độ phì nhiêu của đất. Một trong các kết quả của dự án là Giảm phát thải khí nhà kính (GHG) từ giảm phát thải khí CH4 và N2O, ước tính bằng tấn CO2 tương đương: 56.000 tấn CO2/ năm (tối đa từ 100.000 ha áp dụng các giải pháp của dự án) so với thời điểm 2023 (trước khi thực hiện dự án). Chỉ số này được tính theo phương pháp có hệ số phát thải đã được quốc tế công nhận của IPCC.

Chúng tôi đã xác định một số nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới đó là: Rà soát, cập nhật, hoàn thiện các tiêu chuẩn về phương pháp thử để kiểm soát chất lượng phân bón, đặc biệt các chỉ tiêu chất lượng phân bón mới. Phối hợp với các lực lượng chức năng tăng cường quản lý chặt chẽ phân bón lưu thông trên thị trường, ngăn chặn, đẩy lùi phân bón giả, phân bón kém chất lượng. Tiếp tục nhân rộng mô hình sử dụng phân bón hữu cơ và phân bón tiết kiệm gắn với các vùng sản xuất lúa phát thải thấp.

z7287168217373_e65687fb96516440e349e318f552c8ae_1764747586.webp
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp: Bước tiến chiến lược trong tái cơ cấu nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long

Phóng viên: Để nông dân mạnh dạn chuyển sang mô hình lúa chất lượng cao, phát thải thấp, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật sẽ triển khai những chương trình hỗ trợ kỹ thuật cụ thể nào? và Cục có định hướng gì trong việc đồng hành cùng nông dân để thay đổi tập quán sản xuất nhằm nâng cao giá trị sản xuất và giảm phát thải?

Ông Nguyễn Quốc Mạnh: Để hỗ trợ nông dân chuyển đổi sang mô hình lúa chất lượng cao, phát thải thấp, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật triển khai đồng bộ các chương trình kỹ thuật, tổ chức sản xuất và hỗ trợ thị trường với mục tiêu vừa giảm phát thải, vừa nâng cao thu nhập và bảo đảm sinh kế cho người nông dân.

z7287168217251_d7253908e36d039a582231cb17cdccfb_1764747586.webp
Niềm vui của nông dân khi được thu hoạch lúa theo đề án 1 triệu ha lúa phát thải thấp

Trước hết, Cục phối hợp các đơn vị liên quan tăng cường đào tạo, tập huấn và chuyển giao kỹ thuật theo quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp đã ban hành. Nội dung tập trung vào giảm lượng giống, tối ưu phân bón, áp dụng tưới ngập khô xen kẽ, quản lý dịch hại tổng hợp và thu gom rơm rạ nhằm giảm chi phí và bảo đảm năng suất.

Song song, Cục thúc đẩy kết nối chuỗi giá trị, hỗ trợ hợp tác xã nâng cao năng lực quản lý vùng nguyên liệu, tăng cường liên kết với doanh nghiệp bao tiêu để bảo đảm đầu ra ổn định cho nông dân.

Ngoài ra, Cục sẽ tiếp tục phối hợp với Cục Biến đổi Khí hậu, Viện Môi trường Nông nghiệp, IRRI, FAO và các tổ chức quốc tế khác để chuẩn hóa và hoàn thiện quy trình MRV (đo đạc – báo cáo – thẩm định) giảm phát thải. Khi hệ thống MRV được áp dụng rộng rãi, nông dân và hợp tác xã có thể chứng minh mức giảm phát thải, tạo cơ sở tiếp cận thị trường gạo phát thải thấp và tiến tới tham gia thị trường tín chỉ carbon trong tương lai.

Định hướng của Cục là đồng hành với nông dân trong toàn bộ quá trình chuyển đổi, từ kỹ thuật đến tổ chức sản xuất và thị trường, nhằm xây dựng mô hình canh tác lúa hiệu quả, bền vững và thân thiện môi trường, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng xanh quốc gia.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!

Liên Huyền - Lê Hải