Ứng dụng khoa học và công nghệ đảm bảo an ninh nguồn nước

Thứ ba, 21/5/2024, 14:28 (GMT+7)
logo Luật Tài nguyên nước năm 2023 vừa được Quốc hội khóa XV thông qua đã xác định công tác bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước là nhiệm vụ quan trọng.

Ứng dụng khoa học và công nghệ đảm bảo an ninh nguồn nước

Thách thức nguồn nước

Nước đã trở thành tài nguyên chiến lược thứ hai sau tài nguyên con người, cũng là chìa khoá để đạt được tất cả mục tiêu phát triển bền vững nhưng đang bị suy thoái trầm trọng. Do đó, trong những năm qua, Nhà nước đã đầu tư và có nhiều giải pháp để bảo đảm an ninh nguồn nước (ANNN) và an toàn đập, hồ chứa nước, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra. 

Nguồn nước mặt sản sinh trong lãnh thổ Việt Nam chỉ chiếm 37% tổng lượng nước mặt của quốc gia, sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ chiếm tới 63%, đến nay, vẫn chưa có cơ chế, chính sách, biện pháp hiệu quả để hợp tác, chia sẻ nguồn nước giữa các quốc gia có chung nguồn nước.

Việt Nam là nước thuộc số quốc gia có lượng mưa lớn trên thế giới nhưng phân bố không đều cả về không gian và thời gian. Một số vùng, một số khu vực có nguy cơ bị sa mạc hóa như Bình Thuận, Ninh Thuận. Cùng với đó, biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến ANNN, an toàn đập, hồ chứa nước và phát triển KT-XH của quốc gia. Nguồn nước ở nhiều khu vực bị ô nhiễm trầm trọng. Trong khi tổng nhu cầu nước tăng cao theo từng năm. Cùng với đó, công trình khai thác nguồn nước được xây dựng từ lâu đã xuống cấp, khó thay đổi công năng đáp ứng cho sản xuất quy mô lớn. Tỷ lệ thất thoát nước cho cấp nước đô thị và nông thôn còn ở mức cao (khoảng 25%), công suất khai thác nước thực tế còn thấp hơn so với năng lực thiết kế. Tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, cạn kiệt nguồn nước cùng với tác động của phát triển KT-XH và sự gia tăng dân số đô thị, sẽ là thách thức lớn trong việc bảo đảm an toàn cấp nước.

Theo Ngân hàng Thế giới, giá trị sử dụng nước của Việt Nam rất thấp, chỉ tạo ra 2,37 USD/m3 nước, bằng khoảng 1/10 so với mức trung bình toàn cầu là 19,42 USD. Tỷ lệ thất thoát nước trong cấp nước sinh hoạt đô thị, nông thôn còn cao (20-25%; trong thủy lợi khoảng 30%). Ngoài ra, vấn đề trong chuyển nước, điều tiết nước hay bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn sinh thủy cho các lưu vực sông; năng lực khai thác công trình thủy lợi còn chưa đáp ứng yêu cầu.

PGS. TS. Nguyễn Đăng Tính, Phó Giám đốc Phân hiệu Trường Đại học Thủy lợi tại TP. Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề an toàn do các hồ chứa nước được xây dựng từ những năm 1970-1980 của Thế kỷ XX, đang trong tình trạng xuống cấp, hư hỏng nặng. Trong khi đó, kinh phí bảo trì, sửa chữa, nâng cấp, năng lực cán bộ quản lý, vận hành hồ, đập còn hạn chế. Vì vậy, cần nghiên cứu, ứng dụng công nghệ nâng cao khả năng chống thấm cho đập đất, có những quy trình ứng phó với các tình huống khẩn cấp các quy mô hồ chứa, đập khác nhau. Ngoài ra, cần xây dựng hệ thống tích hợp quan trắc, điều hành hồ chứa thông minh, hoàn thiện quy trình đánh giá an toàn đập, hồ chứa, kết hợp với chuyển đối số hoàn thiện hệ thống thông tin công trình.

Nhận định ANNN tại Đồng bằng sông Cửu Long (một trong những khu vực chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu hiện nay) đang có nhiều vấn đề nghiêm trọng, GS. TS. Tăng Đức Thắng, nguyên Phó Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam nhấn mạnh, khu vực này đang chịu ảnh hưởng rõ rệt của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, lún sụt đất. Vì thế, phát triển ĐBSCL cần theo hướng thích nghi có kiểm soát, chủ động tạo ra chế độ nước hợp lý trên nền chế độ tự nhiên, làm giảm mức độ rủi ro, bấp bênh trong các hoạt động KT-XH, nhất là ngành nông nghiệp.

Cùng với đó, cần lồng ghép các vấn đề trọng yếu như bảo đảm ANNN, ngập nước và suy thoái đồng bằng vào chiến lược phát triển KT-XH của khu vực này cũng như của quốc gia; xây dựng kế hoạch, quy hoạch dài hạn cho các vấn đề liên quan đến nước như: Bảo đảm ANNN; quy hoạch phòng chống ngập nước cho toàn ĐBSCL; bảo vệ chống biển lấn và hệ sinh thái ngập mặn ven biển. Đồng thời, nghiên cứu giải pháp chủ động cấp nước ngọt cho các vùng hạn mặn và khan hiếm nước; nghiên cứu tính khả thi của việc xây dựng hồ trữ nước ngọt trên hệ thống sông Vàm Cỏ để bảo đảm ANNN phục vụ phát triển KT-XH trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng; nghiên cứu đánh giá, dự báo chế độ nước (mực nước, sóng, chất lượng nước) vùng ven biển ĐBSCL phục vụ phát triển thủy sản,…

Từ thực tế trên, cần thiết có các công trình thích ứng, giảm thiểu suy thoái của vùng do sụt lún đất và xói lở sông biển. Về nghiên cứu công nghệ, để gia tăng nguồn nước cũng như sử dụng nước hiệu quả và tiết kiệm cũng là bài toán lớn đặt ra trong giai đoạn tới khi nhu cầu nước dự kiến năm 2045 là 130 tỷ m3, tăng khoảng 30% so với nhu cầu thực tế hiện nay.

Ứng dụng công nghệ để quản lý hiệu quả nguồn nước

Xác định ANNN đã trở thành vấn đề toàn cầu, việc bảo đảm ANNN và an toàn đập, hồ chứa nước là yêu cầu tất yếu khách quan, là trách nhiệm và nghĩa vụ của cả hệ thống chính trị và toàn dân, đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn trước mắt và lâu dài, Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm ANNN và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Tại Kết luận số 36-KL/TW đã đề ra 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, trong đó có đưa ra giải pháp “Nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ, chuyển đổi số trong bảo đảm ANNN, an toàn đập, hồ chứa nước”. Từ nhu cầu thực tiễn ANNN và nhiệm vụ được giao của Đảng, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, ngày 1/12/2023 Bộ KH&CN đã ban hành Quyết định số 2846/QĐ-BKHCN phê duyệt Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 “Nghiên cứu KH&CN phục vụ bảo đảm ANNN và an toàn đập, hồ chứa nước”, mã số KC.14/21-30.

Mục tiêu của Chương trình KC.14/21-30 là hướng tới: Cung cấp luận cứ, cơ sở khoa học và thực tiễn để hỗ trợ xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm ANNN và an toàn đập, hồ chứa nước; phát triển, ứng dụng, chuyển giao được các công nghệ tiên tiến để phát triển, quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước phục vụ dân sinh, phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN, ANNN và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển, ứng dụng và chuyển giao được các công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao mức bảo đảm an toàn, hiệu quả quản lý, khai thác đập, hồ chứa nước và công trình thủy lợi.

Chương trình đã đề ra một số mục tiêu cụ thể như: 60% số nhiệm vụ có kết quả được ứng dụng hoặc ứng dụng thử nghiệm thành công; 30% số nhiệm vụ có đơn đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ (sáng chế, giải pháp hữu ích) được chấp nhận, trong đó 10% số nhiệm vụ có bằng độc quyền sáng chế hoặc giải pháp hữu ích được công nhận; 20% số nhiệm vụ có doanh nghiệp tham gia phối hợp thực hiện,…

Việc triển khai Chương trình sẽ góp phần giải quyết tổng thể các vấn đề khoa học và công nghệ liên quan đến ANNN và an toàn đập, hồ chứa nước như: Công nghệ tiên tiến và giải pháp để phát triển gia tăng nguồn nước nhằm chủ động ứng phó với nguy cơ, rủi ro mất ANNN; giải pháp, công nghệ mới, tiên tiến nhằm quản lý, khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tuần hoàn, giảm thất thoát, lãng phí nước; tăng hiệu suất, năng suất nước; công nghệ, phương pháp tiên tiến, hiện đại, thông minh, đề xuất giải pháp mới gắn với đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong quản lý nhằm nâng cao mức bảo đảm an toàn, khai thác hiệu quả đập, hồ chứa nước.

PHƯƠNG CHI
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 7 năm 2024