
Nhiều thách thức trong bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam
Việt Nam được công nhận là một trong 25 nước có đa dạng sinh học cao trên thế giới với nhiều kiểu hệ sinh thái, các loài sinh vật, nguồn gen phong phú và đặc hữu. Theo Báo cáo của Bộ TN&MT, Việt Nam là nơi trú ngụ của gần 14 nghìn loài thực vật, hơn 10 nghìn loài động vật trên cạn. Số loài sinh vật nước ngọt đã được biết đến là hơn 1.438 loài vi tảo, 800 loài động vật không xương sống, 1.028 loài cá nước ngọt. Số lượng loài sinh vật biển được biết là hơn 11 nghìn loài (6.300 loài động vật đáy, 2.500 loài cá biển, 653 loài rong biển, 657 loài động vật nổi, 537 loài thực vật nổi, 94 loài thực vật ngập mặn, 225 loài tôm biển, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 25 loài thú biển và năm loài rùa biển). Tuy nhiên, các số liệu nêu trên vẫn chưa phản ánh đầy đủ tính ĐDSH của Việt Nam, khi số lượng loài mới được phát hiện không ngừng tăng nhanh những năm gần đây. Điều đó chứng minh nguồn tài nguyên về đa dạng loài động, thực vật ở Việt Nam chưa thật sự được hiểu biết đầy đủ.
Việt Nam hiện có 181 khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó, có 34 vườn quốc gia, 60 khu dự trữ thiên nhiên, 22 khu bảo tồn loài và sinh cảnh và 65 khu bảo vệ cảnh quan, với tổng diện tích hơn 2,64 triệu héc-ta. Ngoài ra, cả nước có chín khu đất ngập nước được công nhận là khu Ramsar thế giới và có hơn 20 địa phương phê duyệt quy hoạch bảo tồn ĐDSH cấp tỉnh, thành phố.
Theo các chuyên gia, nhà khoa học lĩnh vực ĐDSH, Việt Nam đã và đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức trong công tác bảo tồn ĐDSH như: Tình trạng khai thác trái phép các loài động, thực vật hoang dã phục vụ nhu cầu sinh sống, giải trí hoặc thương mại đã đẩy nhiều loài đến bờ vực tuyệt chủng trong tự nhiên và gây sức ép nghiêm trọng lên các quần thể khác. Đáng lo ngại, tình trạng chặt phá rừng vì mục đích thương mại, phá rừng do du canh là một trong những đe dọa trực tiếp làm mất rừng hoặc suy thoái rừng. Trong khi đó, việc giảm diện tích rừng đầu nguồn do các dự án thủy điện, phát triển giao thông và do các nguyên nhân khác đã và đang gây ra những ảnh hưởng xấu đến môi trường, trong đó, có các tác động làm giảm lớp phủ thực vật, phân mảng môi trường sống hoang dã của nhiều loài sinh vật nguy cấp, làm suy giảm nguồn sinh thủy trên các lưu vực sông. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm môi trường ảnh hưởng tiêu cực đến ĐDSH ở mọi cấp độ, nhất là việc mở rộng thâm canh nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật với nhiều nguồn gốc khác nhau được sử dụng ngày càng phổ biến, thiếu kiểm soát đã góp phần làm suy thoái các quần thể chim và côn trùng ở các vùng nông thôn và ngoại ô thành phố.
Ngoài ra, Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu. Do đó, các hệ sinh thái vốn đã bị chia cắt chắc chắn sẽ phản ứng kém hơn đối với những biến đổi này và có thể không tránh khỏi sự mất mát với tốc độ rất cao. Nhiều loài động, thực vật hoang dã sẽ phải chịu áp lực ngày càng lớn do phải thay đổi nơi cư trú, nguồn thức ăn bị thay đổi và thiên tai như lũ lụt, hạn hán và mưa bão sẽ diễn ra thường xuyên hơn. Một số loài thực vật và động vật có xương sống có thể sẽ tuyệt chủng trong thế kỷ tới do tác động của biến đổi khí hậu gây ra.
Hành động vì đa dạng sinh học và hệ sinh thái tại Việt Nam
Theo TS. Nguyễn Văn Tài, Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH, thời gian qua, Bộ TN&MT đã tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐDSH; lập quy hoạch bảo tồn ĐDSH trên cả nước,... Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển KT-XH hiện nay, công tác bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, đòi hỏi sự chung tay hơn nữa của toàn xã hội thời gian tới. Trước hết, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy và nhận thức về lối sống bền vững hài hòa với thiên nhiên; xây dựng đạo đức, văn hóa, văn minh sinh thái trong ứng xử với tự nhiên; xây dựng bộ tiêu chí văn hóa, lối sống xanh trong toàn xã hội. Tập trung chuyển đổi thành công cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”, từ khai thác thâm dụng tài nguyên thiên nhiên sang kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, các-bon thấp; đầu tư cho vốn tự nhiên.
Một là, ưu tiên giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường tại các lưu vực sông chính, các khu, cụm công nghiệp, làng nghề; thúc đẩy phân loại, thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn; ứng dụng công nghệ tiên tiến trong tái chế, xử lý chất thải rắn, giảm dần việc chôn lấp trực tiếp chất thải; khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm, suy thoái tài nguyên đất; Tăng cường các hoạt động phòng chống các loại tội phạm về môi trường, săn bắn và buôn bán động vật hoang dã.
Hai là, kiểm soát tác động tiêu cực của các dự án, hoạt động kinh tế tới thiên nhiên, ĐDSH. Thực hiện đánh giá tác động của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đối với di sản thiên nhiên trong đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường. Xây dựng và triển khai áp dụng cơ chế bồi hoàn ĐDSH, đặc biệt đối với hệ sinh thái rừng và đất ngập nước.
Ba là, củng cố, tăng cường hệ thống di sản thiên nhiên, đặc biệt là thông qua triển khai đồng bộ các quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và Nghị định 08/2022/NĐ-CP, trong đó ưu tiên tăng cường năng lực và nguồn lực cho quản lý và bảo vệ môi trường các di sản thiên nhiên; thành lập mới, đề xuất các tổ chức quốc tế công nhận danh hiệu cho các di sản thiên nhiên. Triển khai xây dựng hướng dẫn kỹ thuật lập dự án xác lập, công nhận di sản thiên nhiên.
Thúc đẩy lượng giá ĐDSH; tiếp tục mở rộng áp dụng cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái đối với các hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt là rừng, đất ngập nước, biển, núi đá, hang động và công viên địa chất. Phát triển mạng lưới khu dự trữ sinh quyển, vườn di sản ASEAN, khu Ramsar.
Bốn là, tiếp tục xây dựng và thực hiện các chương trình bảo tồn loài động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm, cây trồng vật nuôi được ưu tiên bảo vệ. Phát triển hệ thống cơ sở bảo tồn chuyển chỗ, các trung tâm cứu hộ động vật, vườn động vật, vườn thực vật, vườn cây thuốc. Tăng cường ngăn chặn khai thác, săn bắt, đánh bắt, buôn bán trái phép động vật, thực vật hoang dã, quý hiếm; kiểm soát chặt chẽ hoạt động gây nuôi động vật hoang dã.
Năm là, đẩy mạnh bảo tồn các nguồn gen quý hiếm, đặc hữu, có nguy cơ tuyệt chủng. Thúc đẩy tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích. Tăng cường kiểm soát, ngăn chặn sự du nhập, phát triển và giảm thiểu tác động của các loài sinh vật ngoại lai xâm hại. Tiếp tục kiểm soát rủi ro từ sinh vật biến đổi gen, chú trọng việc quản lý nhập khẩu, cấp phép và nhân giống sinh vật biến đổi gen.
Sáu là, bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng. Đẩy mạnh triển khai các mô hình bảo tồn, sử dụng bền vững các hệ sinh thái. Xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch phục hồi, sử dụng bền vững các hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái, nhất là rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển và các vùng đất ngập nước quan trọng; thực hiện quản lý dựa trên khả năng phục hồi đối với các rạn san hô.
Quản lý, bảo vệ chặt chẽ, phục hồi rừng tự nhiên; bảo vệ và phát triển bền vững 100% diện tích rừng hiện có. Ngăn chặn có hiệu quả nạn khai thác thực vật, động vật hoang dã và phá rừng trái pháp luật. Tăng cường năng lực phòng, chống cháy rừng, giảm số vụ và diện tích rừng bị cháy.
Thực hiện hiệu quả mục tiêu về Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái tự nhiên và hướng tới COP15 các bên tham gia Công ước ĐDSH; các quy định của Luật BVMT 2020, Luật ĐDSH, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào toàn dân tham gia thực hiện có kết quả Chương trình trồng 1 tỷ cây xanh; bảo vệ rừng, phục hồi, trồng mới rừng ngập mặn; nâng cao tỷ lệ bảo tồn gắn với phát triển kinh tế sinh thái, sinh kế bền vững của người dân.
NGUYÊN KHÔI
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 13 (Kỳ 1 tháng 7) năm 2024