
Ảnh minh họa.
Khảo sát, đánh giá tổng thể nguồn nước dưới đất vùng đô thị Vĩnh Yên
Đề án “Bảo vệ nước dưới đất (NDĐ) ở các đô thị lớn” - giai đoạn II trong đó có đô thị Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc do Liên đoàn QH&ĐT TNN miền Bắc thi công từ năm 2020 đến 2021. Qua 2 năm triển khai, đến nay đã hoàn thành 100% khối lượng được phê duyệt, các sản phẩm được thực hiện theo đúng đặt hàng và tiến hành lập báo cáo tổng kết đề án theo quy định.
Qua điều tra, khảo sát khu vực đô thị Vĩnh Yên tồn tại 2 TCN lỗ hổng (qh, qp); 3 TCN khe nứt - lỗ hổng (N12pl, J1-2hc và PR3-ª1ch) và 3 thành tạo địa chất rất nghèo nước hoặc thực tế không chứa nước. Theo Quyết định số 3071/QĐ-BTNMT về việc phê duyệt nội dung và dự toán Đề án: “Bảo vệ NDĐ ở các đô thị lớn” - Giai đoạn II, các TCN cần được điều tra bảo vệ trên diện tích đô thị Vĩnh Yên là TCN Holocen (qh) và Pleistocen (qp).
Theo nhóm điều tra Đề án, toàn đô thị Vĩnh Yên hiện có khoảng 105.700 công trình khai thác NDĐ với tổng lưu lượng khai thác là 54.476 m3/ngày. Trong đó, công trình khai thác nước tập trung có 47 công trình, công trình khai thác nước đơn lẻ có 52 công trình, công trình khai thác nước nông thôn có 105.601 công trình. Trên địa bàn đô thị Vĩnh Yên hiện có 2 nhà máy nước lớn: Nhà máy nước Ngô Quyền đặt tại khu vực phường Đồng Tâm - Đống Đa, TP. Vĩnh Yên và nhà máy nước Hợp Thịnh đặt tại xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương với lưu lượng khai thác 14.736 m3/ngày. Ngoài ra, trên vùng còn 10 trạm cấp nước do Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường nông thôn, Công ty cổ phần cấp nước Vĩnh Phúc và UBND huyện Vĩnh Tường UBND huyện Vĩnh Tường vận hành và quản lý. Các trạm cấp nước này có lưu lượng khai thác từ 330 - 3000 m3/ngày, tập trung tại phía Nam vùng nghiên cứu thị trấn Yên Lạc, Đại Tự, Liên Châu, Trung Hà, Trung Kiên huyện Yên Lạc,…
Kết quả tổng hợp hiện trạng xả nước thải và kết quả điều tra, khảo sát cho thấy, tổng lượng nước thải tại 5 huyện, thành phố thuộc đô thị Vĩnh Yên có tổng lượng nước xả thải khoảng 66.617 m3/ngđ. Trong đó, tổng lượng nước thải được xử lý khoảng 14.811 m3/ngđ (Nhà máy xử lý nước thải tại xã Quất Lưu, huyện Bình Xuyên với công suất 5000 m3/ngđ và công trình xử lý nước thải khu dân cư tập trung bằng bể Bastaf với công suất khoảng 200 m3/ngđ) và 51.803 m3/ngđ chưa được xử lý. Loại hình xả thải trên khu vực đô thị Vĩnh Yên chủ yếu từ sinh hoạt, khu cụm công nghiệp và làng nghề.
Về chất lượng NDĐ, trong TCN qh, có khá nhiều chỉ tiêu vượt giá trị giới hạn QCVN09-MT:2015/BTNMT; trong đó phổ biến nhất là Amoni (NH4+), sắt (Fe). Các xã của huyện Vĩnh Tường nằm dọc sông Hồng: Phú Thịnh, Lý Nhân, An Tường, Vĩnh Thịnh có hàm lượng Amoni vượt giá trị giới hạn. Khu vực xã An Tường - Vĩnh Thịnh thuộc huyện Vĩnh Tường có hàm lượng sắt khá lớn, vượt QCVN 09-MT:2015/BTMT từ 3-4 lần.
Kết quả phân tích cho thấy, hiện tại vùng đô thị Vĩnh Yên chưa có vùng cạn kiệt nhưng kết quả dự báo cho thấy, có 2 vùng có nguy cơ xảy ra cạn kiệt tại khu vực bãi giếng khai thác thuộc TP. Vĩnh Yên và huyện Bình Xuyên. Do đó, vấn đề bảo vệ tài nguyên NDĐ đô thị Vĩnh Yên là cạn kiệt và ô nhiễm.
Trên cơ sở trữ lượng khai thác an toàn, điều kiện thực tiễn về công nghệ khai thác hiện nay và quỹ đất có thể bố trí được các hành lang, bãi giếng khai thác tại các khu vực trọng tâm phát triển KT-XH. Đề án đã tính toán các phương án khai thác NDĐ tối ưu nhất và xác lập kế hoạch, lộ trình đến năm 2025 khai thác được nguồn NDĐ đạt trữ lượng 63.000 m3/ngày và đến năm 2030 là 95.000 m3/ngày. Với phương án này, hiện đã xác định vị trí và lưu lượng khai thác tối ưu NDĐ phục vụ phát triển KT-XH của đô thị với mục tiêu hài hòa với hệ thống cấp nước hiện có, hợp lý về mặt kinh tế và đảm bảo an ninh nguồn nước trong điều kiện BĐKH nguồn nước mặt có nguy cơ suy giảm về số lượng, ô nhiễm. Đặc biệt, đã tính toán và xác lập được các vùng có khả năng bổ cập tự nhiên rất tốt, tốt với diện tích lần lượt là 121,59 km2; 67,1 km2 và một phần diện tích nhỏ có khả năng bổ cập tự nhiên trung bình và kém. Giám sát cả về số lượng và chất lượng đồng thời đưa ra được các giải pháp, lộ trình cần phải thực hiện ngay trong thời gian tới để bảo vệ nguồn tài nguyên NDĐ đô thị Vĩnh Yên.
Đề án cũng đã tính toán, luận chứng thiết kế bổ sung 24 điểm với 30 công trình quan trắc tầng chứa nước qh và qp, nhằm hoàn thiện được mạng quan trắc, giám sát tài nguyên NDĐ một cách toàn diện nhất để bảo vệ nguồn tài nguyên NDĐ của đô thị với mục tiêu giám sát TNN, nguy cơ cạn kiệt và ô nhiễm NDĐ. Trong đó, có 10 công trình quan trắc giám sát nguy cơ cạn kiệt và 10 công trình quan trắc giám sát ô nhiễm NDĐ. Đồng thời, tổng rà soát, cập nhật toàn bộ các tài liệu điều tra cơ bản về tài nguyên NDĐ trên địa bàn nghiên cứu đô thị Vĩnh Yên từ trước đến nay, tiến hành điều tra, đánh giá chi tiết về tài nguyên NDĐ và các vấn đề cần bảo vệ nguồn tài nguyên này. Vì vậy, các số liệu đánh giá về hiện trạng tài nguyên NDĐ có độ tin cậy cao, các giải pháp kỹ thuật đưa ra để bảo vệ NDĐ khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nước, phát triển bền vững TNN đồng thời phục vụ hữu ích cho mục tiêu phát triển KT-XH của đô thị.
Đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn nước ngầm bền vững
Nguồn nước ngầm tại đô thị Vĩnh Yên đang đối mặt với nguy cơ ô nhiễm do việc xả thải từ khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề và khu chăn nuôi ra môi trường. Để thu thập các thông tin, dữ liệu triển khai đề án; Liên đoàn đã tiến hành khảo sát tại địa phương từ Sở TN&MT, KH&ĐT, NN&PTNT, UBND huyện Vĩnh Yên, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Tam Dương và Bình Xuyên. Trên cơ sở thực tế nguồn nước và nguyên nhân của vùng, Liên đoàn đã đề xuất giải pháp quản lý các đới phòng hộ, bảo vệ các công trình khai thác NDĐ. Đây là công việc khó nhất nhưng lại có ý nghĩa trong việc quy hoạch TNN.
Ở cấp thành phố và cấp quận huyện, cần xây dựng bộ máy quản lý TNN đồng bộ, đủ năng lực về nghiệp vụ và thiết bị để thực hiện công tác QLNN về TNN, bảo vệ TNN cũng như việc thực thi các giải pháp quản lý bảo vệ công trình khai thác nước; xây dựng lực lượng thanh tra chuyên ngành về TNN; định kỳ và đột xuất kiểm tra, thanh tra và xử lý kịp thời, triệt để các hoạt động bị cấm trong phạm vi các đới bảo vệ công trình khai thác NDĐ (đới I, II, III).
Đối với chính quyền địa phương, các công ty khai thác nước cũng như người dân trong khu vực có liên quan cần thực hiện nghiêm túc các quy định giới hạn các hoạt động trong phạm vi từng đới bảo vệ công trình.
Trung tâm QH&ĐT TNN Quốc gia, trình Bộ TN&MT phê duyệt và bàn giao cho địa phương sử dụng các kết quả nghiên cứu. Đề án sẽ có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, là cơ sở định hướng cũng như quy hoạch về bảo vệ và sử dụng nguồn NDĐ cho địa phương. Đồng thời, thông qua việc xác định, đánh giá các nguồn gây bẩn trong đô thị có khả năng tác động trực tiếp đến nguồn NDĐ như các bãi rác, bãi chôn lấp rác dưới đất, điểm xả thải,… sẽ định hướng cho địa phương có biện pháp bảo vệ các tầng chứa nước đó như tăng cường ý thức người dân không vứt rác bừa bãi, tập trung vào những điểm thu gom, thành lập các đới bảo vệ cho công trình khai thác nước phục vụ quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương một cách bền vững.
ThS. ĐỖ HÙNG SƠN
Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc