
PV: Xin ông đánh giá khái quát về tiềm năng tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay?
Ông Hoàng Tuấn Tam: Tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 04 sông, suối lớn liên tỉnh chảy qua tỉnh gồm sông Hồng, sông Lô, sông Phó Đáy và sông Cà Lồ; 09 lưu vực sông, suối nội tỉnh có chiều dài từ 10km trở lên cùng với hệ thống hồ chứa nước lớn và nguồn nước dưới đất đem lại tiềm năng tài nguyên nước hàng năm vào khoảng 140,7 tỷ m3/năm. Nếu chỉ tính tiềm năng nguồn nước nội sinh tức là chỉ tính phần sinh ra trên địa bàn tỉnh vào khoảng 1,38 tỷ m3 (trong đó tiềm năng tài nguyên nước mặt khoảng 1,07 tỷ m3 và tiềm năng nước dưới đất khoảng 0,303 triệu m3).
Ông Hoàng Tuấn Tam, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Phúc trả lời phỏng vấn Phóng viên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường
Nhìn trên tổng lượng nước đến tỉnh Vĩnh Phúc (tức là có xem xét lượng nước từ ngoài tỉnh đổ vào trên các sông Hồng, Lô, Phó Đáy và Cà Lô) theo bình quân đầu người (Dân số Vĩnh Phúc khoảng 1.154.836 người) đạt khoảng 121.103 m3/người/năm trên mức tiêu chuẩn quốc tế về đủ nước (>4.000 m3/người/năm).
Tuy nhiên, hơn 2/3 tiềm năng tài nguyên nước tỉnh Vĩnh Phúc phụ thuộc vào nguồn nước ngoại lai từ các tỉnh phía thượng nguồn và Trung Quốc nên nếu chỉ tính lượng nước nội sinh trong tỉnh chỉ đạt 1.194 m3/người/năm dưới mức 1.700 m3/người/năm sẽ xuất hiện tình trạng căng thẳng về nguồn nước một cách thường xuyên.
PV: Xin ông cho biết, việc quy hoạch tài nguyên nước đã được Vĩnh Phúc thực hiện ra sao, thưa ông?
Ông Hoàng Tuấn Tam: Sau khi Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH13 ngày 21/6/2012 có hiệu lực, Sở Tài nguyên và Môi trường Vĩnh Phúc đã tập trung tham mưu cho UBND tỉnh triển khai lập Quy hoạch phân bổ và bảo vệ tài nguyên nước dưới đất trên địa bàn 7 huyện, thành phố: Yên Lạc, Vĩnh Tường, Tam Đảo, Tam Dương, Lập Thạch, Sông Lô và thành phố Vĩnh Yên đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” thực hiện năm 2014 nhằm đưa ra các giải pháp quản lý, tích trữ, điều hoà, phân bổ tài nguyên nước dưới đất một cách công bằng, hợp lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, phòng chống suy thoái, cạn kiệt, sụt lún, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đến nay, Quy hoạch tài nguyên nước cấp tỉnh đã không còn mà thay bằng Phương án khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra trên địa bàn tỉnh tích hợp trong Quy hoạch tỉnh. Sở Tài nguyên và Môi trường đã có nhiều văn bản đóng qóp ý kiến trong quá trình xây dựng Phương án tài nguyên nước tích hợp trong quy hoạch tỉnh phải được triển khai hiện thực hoá từ Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Hồng – Thái Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo tính thứ bậc của Quy hoạch. Cho đến ngày 06/02/2023, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Hồng – Thái Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cũng có các nội dung yêu cầu đối với UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW triển khai.
Hồ Đại Lải – Viên ngọc quý của tỉnh Vĩnh Phúc
Nắm bắt được ý kiến chỉ đạo đó, Sở Tài nguyên và Môi trường đã đề xuất các nhiệm vụ cần thiết thực hiện giai đoạn đến năm 2025 trình UBND tỉnh phê duyệt thực hiện nhằm góp phần quản lý, tích trữ, điều hòa, phân bổ tài nguyên nước một cách công bằng, hợp lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước, thích ứng với biến đổi khí hậu.
PV: Vấn đề quản lý, giám sát việc khai thác và sử dụng tài nguyên nước được Sở thực hiện ra sao nhằm tránh thất thoát tài nguyên?
Ông Hoàng Tuấn Tam: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có 31 Giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt với tổng lưu lượng khai thác 1.584.308 m3/ngày đêm và 47 Giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất với tổng lưu lượng khai thác 62.821 m3/ngày đêm đang còn hiệu lực phục vụ cho các mục đích như sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ, chăn nuôi và sinh hoạt.
Việc quản lý, giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước đã có hướng dẫn cụ thể từ Thông tư 47/2017/BTNMT Quy định về giám sát khai thác, sử dụng nước và đã được điều chỉnh bổ sung thay thế thế bằng Thông tư 17/2021/BTNMT Quy định về giám sát, khai thác sử dụng tài nguyên nước đối với các tổ chức, cá nhân có khai thác, sử dụng nước thuộc đối tượng phải cấp giấy phép.
Một công trình phục vụ nước sinh hoạt ở tỉnh Vĩnh Phúc
Trong quá trình thẩm định cấp giấy phép tài nguyên nước, nội dung giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước đã được Sở Tài nguyên và Môi trường coi là nội dung chính yêu cầu thực hiện theo quy định của giấy phép. Các chủ giấy phép phải cam kết và đưa ra lộ trình thực hiện lắp đặt thiết bị và thực hiện quan trắc, giám sát khai thác, sử dụng nước. Tuy nhiên, do hạ tầng cơ sở dữ liệu, thiết bị tiếp nhận dẫn truyền thông tin tại Sở còn hạn chế nên việc lắp đặt và kết nối dữ liệu của công trình xin cấp phép còn chưa được thực hiện triệt để.
Do đó, Sở đang xây dựng chủ trương hoàn thiện việc xây dựng và duy trì hệ thống mạng quan trắc tài nguyên nước cấp địa phương; Hoàn thiện việc xây dựng và duy trì hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên môi trường trong đó có tài nguyên nước, khai thác sử dụng nước của các ngành trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, bảo đảm sự kết nối, chia sẻ hiệu quả giữa các cấp, ngành, địa phương.
PV: Theo ông đâu là những bất cập trong quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước hiện nay?
Ông Hoàng Tuấn Tam: Việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước giữa thượng lưu và hạ lưu trên một con sông thiếu sự phối hợp chặt chẽ, chưa xuất phát từ lợi ích và hiệu quả xã hội, của toàn vùng mà chỉ xuất phát từ lợi ích của cá nhân, ngành mình, địa phương mình dẫn đến khai thác và sử dụng nước lãng phí, không tiết kiệm.
Luật Tài nguyên nước quy định đối với các dự án xây dựng hồ chứa trên sông, suối phải có các hạng mục công trình để bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu. Tuy nhiên, đối với các công trình hồ chứa thủy lợi, Luật Thủy lợi không yêu cầu phải có hạng mục này và cũng không dẫn chiếu áp dụng pháp luật khác.
Vấn đề chồng chéo trong quản lý, phân định thẩm quyền, trách nhiệm của từng Bộ, ngành, địa phương trong quản lý nguồn nước, quản lý hoạt động khai thác, quản lý hệ thống cấp nước, xử lý nước thải,…nhất là trong vấn đề bảo đảm an ninh tài nguyên nước, an ninh cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất, môi trường.
Hiện nay chưa có cơ chế, chính sách hỗ trợ khuyến khích xây dựng các loại hình trữ nước tại chỗ, cấp nước nhỏ lẻ phục vụ sinh hoạt, góp phần bảo đảm cân đối được nguồn nước ngọt ở quy mô từng hộ, thôn/xóm, xã, huyện, đặc biệt cho vùng thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, khan hiếm nước.
PV: Vậy đâu là những giải pháp quản lý tài nguyên nước trong thời gian tới của Vĩnh Phúc, thưa ông?
Ông Hoàng Tuấn Tam: Nhằm giải quyết được vấn đề, thách thức về tình trạng suy giảm số lượng nước, mực nước sông ngày càng hạ thấp trên địa bàn tỉnh, đặc biệt trong mùa kiệt cần phải tập trung điều tra cơ bản, quy hoạch, thông tin, dữ liệu và dự báo, cảnh báo tài nguyên nước; đồng thời với việc xây dựng các cơ chế điều tiết, điều hòa, phân bổ nguồn nước, thực hiện các biện pháp giám sát khai thác sử dụng tổng hợp nguồn nước một cách tiết kiệm, hợp lý và bền vững trên cơ sở các văn bản pháp luật như Thông tư 17:2021/TT-BTNMT về Quy định giám sát khai thác, sử dụng nước,...
Bên cạnh đó, để giải quyết vấn đề ô nhiễm nguồn nước cần kiểm soát chặt chẽ các hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt là các hoạt động xả nước thải vào nguồn nước. Cùng với việc thực hiện các biện pháp kiểm soát xả nước thải của các cơ sở ngay từ khâu chuẩn bị dự án, xây dựng đến giai đoạn vận hành, cần tập trung xây dựng cơ chế để giám sát chặt chẽ, liên tục chất lượng nước thải trước khi xả vào nguồn nước, nhất là các cơ sở xả nước thải với quy mô lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước.
Cùng với việc triển khai thực hiện các cơ chế khuyến khích đối với các hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, cần nghiên túc thực hiện thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước xóa bỏ thói quen nước là tài nguyên vô hạn không mất tiền... Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng và xả nước thải vào nguồn nước trên địa bàn tỉnh thông qua việc áp dụng công nghệ tự động, trực tuyến, cung cấp thông tin thường xuyên, liên tục về cơ quan quản lý nhà nước để theo dõi giám sát.
Đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động tài nguyên nước nhằm mục đích quản lý nguồn nước và bảo vệ chất lượng nước. Nghiên cứu thiết lập dần cơ chế giải quyết tranh chấp, xung đột lợi ích trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước nhằm phân bổ nguồn nước một cách hài hòa, hợp lý và bền vững về tài nguyên nước.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Đỗ Hùng (thực hiện)