
Ảnh minh họa
Phát triển sinh kế bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu
Hoạt động nâng cao nhận thức về quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng đã đạt nhiều kết quả, được triển khai tại 1.900 xã/6.000 xã thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai. Đã có 44/63 tỉnh, thành phố ban hành kế hoạch phòng chống thiên tai; đã thành lập Ban Chỉ huy Phòng chống lụt bão và Tìm kiếm cứu nạn từ cấp tỉnh đến cấp xã/thôn, phương châm “bốn tại chỗ” đã được triển khai và phát huy hiệu quả từ cấp cơ sở.
Các địa phương trong cả nước đã chú trọng phát triển và đa dạng hóa sinh kế thông qua các hoạt động như chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thay đổi phạm vi và quy mô sản xuất, ứng dụng chuyển giao kỹ thuật công nghệ,… nhằm thích ứng với BĐKH. Khoảng 200.000 ha trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, trồng ngô, các cây hoa màu và cây làm thức ăn chăn nuôi có hiệu quả cao hơn, rõ nhất là ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH).
Nhiều mô hình sinh kế cộng đồng theo hướng các-bon thấp tiêu biểu đã được thí điểm ở các địa phương trên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam như: Phục hồi, chăm sóc và bảo vệ rừng; nông nghiệp xanh ít phát thải; liên kết trồng trọt, chăn nuôi, du lịch sinh thái; làng thông minh với khí hậu; làng sinh thái thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng; cộng đồng làng xã các-bon thấp; sản xuất tích hợp theo hướng sinh thái khép kín cho các làng nghề,… Kiến thức bản địa đã được vận dụng ở nhiều vùng, địa phương, đặc biệt ở Miền núi phía Bắc, ĐBSH, ĐBSCL để duy trì và phát triển sinh kế bền vững trong bối cảnh BĐKH; canh tác nông nghiệp (lựa chọn giống cây trồng, kỹ thuật canh tác, điều chỉnh lịch thời vụ, thu hoạch và bảo quản nông sản; trong nuôi trồng, đánh bắt thủy sản và phát triển sinh kế (kết hợp nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả, trồng rừng với du lịch sinh thái). Một số mô hình sinh kế cộng đồng theo hướng các-bon thấp tiêu biểu đã được thí điểm, khuyến khích nhân rộng như: Mô hình trồng, phục hồi, chăm sóc và bảo vệ rừng, Mô hình sản xuất nông nghiệp xanh ít phát thải, mô hình tổng hợp, liên kết trồng trọt, chăn nuôi, du lịch sinh thái, Mô hình làng thông minh với khí hậu/làng nông thôn thuận thiên, Mô hình cộng đồng làng xã các-bon thấp, chống chịu cao nhằm ứng phó với BĐKH tại khu vực nông thôn Đồng bằng Bắc Bộ,… Mô hình cảnh quan cà phê, quản lý cỏ dại bền vững ứng phó với BĐKH ở Tây Nguyên.
Ở ĐBSCL, theo PGS.TS. Vũ Thị Mai, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, nhiệm vụ chính trong xây dựng mô hình kinh tế thích ứng với BĐKH và xâm nhập mặn (XNM) vùng là giải quyết tình trạng năng suất thấp do, đa dạng hoá nông nghiệp; cơ quan QLNN thực hiện hiệu quả công tác điều phối tập trung, chỉ đạo các hoạt động phát triển, phân bổ nguồn lực và cung cấp các dịch vụ liên quan đến chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển các sinh kế thích ứng XNM và BĐKH bền vững tại cộng đồng. Xây dựng một mô hình kinh tế lấy nông nghiệp làm trung tâm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nông nghiệp giá trị cao-công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp phục vụ sản xuất và kinh doanh nông nghiệp-dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, xuất khẩu, và du lịch. Mô hình kinh tế phải tận dụng lợi thế cạnh tranh của vùng, thích ứng với các thách thức của XNM và BĐKH đồng thời cải thiện được sự tham gia và các mối liên kết của các hộ nông dân, các doanh nghiệp cộng đồng, các bên liên quan vào các chuỗi giá trị được tạo ra trên thị trường.
Nâng cao sức khỏe cộng đồng
Việc tăng cường năng lực cho hệ thống y tế, hiện đại hóa trang thiết bị, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ ngành y tế đã được quan tâm. Tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư phát triển chiếm khoảng 11% ngân sách của ngành y tế. Số lượng giường bệnh trên 1 vạn dân đã tăng lên, đạt 28 năm 2020, số lượng bác sĩ trên 1 vạn dân đạt khoảng 9 năm 2020. Đã tăng cường mạng lưới y tế cơ sở; ban hành quy định về gói dịch vụ y tế cơ bản tại trạm y tế xã. Đến nay, gần 100% người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản.
Hệ thống chính sách chăm sóc sức khỏe cộng đồng đã được triển khai thực hiện, tiếp cận tới đông đảo người dân đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương. Đã cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho các hộ gia đình nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện KT-XH khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi, người già trên 80 tuổi và người khuyết tật. Bộ Y tế đã triển khai thực hiện các mô hình chăm sóc sức khỏe cộng đồng như: Triển khai các mô hình truyền thông tại cộng đồng; hướng dẫn xây dựng, sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh tại vùng ngập lụt và xử lý nguồn nước trong mùa lũ lụt, thiên tai (tại Cao Lãnh, Đồng Tháp); mô hình nhà tiêu cải tiến phù hợp ứng phó với BĐKH trong trường hợp mực nước ngầm dâng cao (tại 2 xã ven biển tỉnh Khánh Hoà); mô hình tổ chức y tế đáp ứng yêu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân huyện đảo thích ứng với BĐKH (tại huyện đảo Bạch Long Vĩ); mô hình phòng chống tai nạn thương tích cộng đồng thích ứng với BĐKH tại một số vùng bị ảnh hưởng,... Bộ Y tế cũng đã triển khai đánh giá tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng của ngành y tế trước tác động của BĐKH.
Công tác truyền thông về chăm sóc sức khỏe để chống chịu với các tác động của BĐKH cũng được đẩy mạnh như xây dựng, ban hành các hướng dẫn cho cán bộ y tế và người dân về chăm sóc sức khỏe mùa nắng nóng, mùa lạnh, hướng dẫn xử lý nước.
Đẩy mạnh sử dụng kiến thức bản địa trong ứng phó
Việc nâng cao nhận thức, thay đổi tư duy, hành động của cộng đồng để cùng chung tay với thế giới giảm phát thải KNK, phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời đảm bảo phát triển nền kinh tế bền vững là mục tiêu của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Để có thể đưa ra những chính sách phù hợp, các kinh nghiệm, kiến thức của cộng đồng sinh sống tại các địa phương đã được chú trọng khai thác, vận dụng nhằm nâng cao hiệu quả thích ứng với BĐKH, đặc biệt là tại cấp cộng đồng. Các kiến thức và kinh nghiệm có thể được thể hiện thông qua hiểu biết của người dân liên quan đến sự thay đổi về nhiệt độ, thời tiết. Ví dụ, người Dao ở miền núi phía Bắc cho biết “Khi thấy trâu đang thả trong rừng mà bỏ chạy về nhà là trời sắp có mưa to chuẩn bị tránh lũ. Hay mặt nước ao đang bình thường chuyển sang màu xanh rêu 2-3 ngày là trời sẽ mưa to...”. Các kiến thức về sản xuất nông nghiệp có liên quan đến chọn giống cây trồng, điều chỉnh thời vụ cũng như những kỹ thuật canh tác phù hợp với điều kiện thời tiết và KT-XH tại địa phương.
TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH cho biết, đề thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ các rủi ro thiên tai, trên thế giới và Việt Nam, có rất nhiều sáng kiến, giải pháp về mô hình kinh tế, mô hình sinh kế nhằm ứng phó với BĐKH, giảm nhẹ rủi ro thiên tai. Các mô hình kinh tế thích ứng với BĐKH là những mô hình can thiệp, đã được điều chỉnh để né tránh, giảm thiểu tác động hoặc thích ứng với quy luật diễn biến của một trong những yếu tố BĐKH tác động mạnh mẽ lên nó, trong thực tại hay tương lai và kết quả là mô hình đó có thể giảm nhẹ và phục hồi với các tác động của BĐKH,…
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định nhiệm vụ bảo vệ, cải thiện môi trường là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững trong thời gian tới. Văn kiện khẳng định quan điểm tăng trưởng kinh tế luôn gắn kết với BVMT trong từng bước và từng chính sách phát triển: “Lấy BVMT sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ONMT, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Do vậy, chúng ta cần đẩy mạnh việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng xanh, xây dựng nền kinh tế tuần hoàn, coi rác thải là tài nguyên, tăng cường tái chế, tái sử dụng. Xây dựng bộ tiêu chí GDP xanh cho nền kinh tế. Tuyên truyền, tạo ý thức của cộng đồng trong sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, năng lượng, BVMT sống; thực hiện lối sống xanh, bền vững, hài hòa với thiên nhiên, bảo tồn ĐDSH.
NGUYỄN PHƯƠNG LINH
Bộ Tài nguyên và Môi trường