news

Xây dựng nền tảng để thực hiện mục tiêu trong thập niên phát triển bền vững

Thứ ba, 1/2/2022, 08:55 (GMT+7)
logo Khép lại một năm với nhiều khó khăn do đại dịch Covid -19 và biến đổi khí hậu tác động lên tất cả các quốc gia trên thế giới và Việt Nam, ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Đối mặt với thách thức đó, toàn ngành TN&MT đã chủ động, sáng tạo, hành động quyết liệt, hiệu quả thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch vừa hoàn thành các mục tiêu lớn của Ngành để phát triển đất nước, hỗ trợ Nhân dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn, xây dựng các nền tảng để thực hiện các mục tiêu trong thập niên phát triển bền vững.

Xây dựng nền tảng để thực hiện mục tiêu trong thập niên phát triển bền vững

Nhân dịp đón Xuân mới Nhâm Dần 2022, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà đã giành cho Tạp chí TN&MT những chia sẻ xung quanh việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm năm 2021 và kế hoạch 2022.

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng! Năm Tân Sửu đang trôi về những ngày cuối cùng. Điều dễ nhận thấy rằng, chưa bao giờ vần đề tài nguyên và môi trường lại là tâm điểm của các chương trình nghị sự phát triển toàn cầu và đất nước như hiện nay. Nhìn lại kết quả công tác năm 2021 của ngành TN&MT, Bộ trưởng có nhận xét, đánh giá gì?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Chúng ta vừa trải qua một năm hết sức đặc biệt! Thiên tai dưới tác động của BĐKH và sự bùng phát dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển kinh tế - xã hội, làm ngưng trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh; thiên tai và BĐKH đã trở thành tình trạng khẩn cấp của nhiều quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Trong bối cảnh đó, ngành TN&MT đã sáng tạo, hiệu quả, linh hoạt với quyết tâm cao nhất để thực hiện 3 mục tiêu: Phòng chống dịch hiệu quả; phát huy được các tiềm lực về tài nguyên đóng góp cho tăng trưởng, phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn; đồng thời xây dựng các nền tảng cho một kỷ nguyên phát triển bền vững dựa trên các hệ sinh thái.

Nhiều chủ trương lớn tổng kết, đánh giá để hoàn thiện như Nghị quyết số 19 về đất đai, Nghị quyết số 02 về khoáng sản, Tổng kết thi hành và sửa đổi Luật Đất đai năm 2013, Luật Tài nguyên nước với tiêu chí cao nhất về tính minh bạch trong tiếp cận thông tin, chia sẻ lợi ích từ nguồn lợi tài nguyên, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Tiết kiệm, hiệu quả, bền vững phải được ưu tiên cao nhất trong các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên.

Hoàn thành xây dựng đồng bộ chính sách, pháp luật về BVMT, ứng phó với BĐKH, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh. Các vướng mắc từ thực tiễn, chồng chéo trong pháp luật đã được rà soát ở 440 văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để khơi thông, giải phóng các nguồn lực tài nguyên đảm bảo đáp ứng các điều kiện đầu vào liên tục của nền kinh tế (như quỹ đất, nước, khoáng sản,...), đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng, các cân đối lớn. Hoàn thành trình Quốc hội quy hoạch quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050, đây là quy hoạch sử dụng đất quốc gia đầu tiên được phê duyệt.

Thủ tục hành chính tiếp tục được cắt giảm thực chất giảm 40% TTHC, 20-85 ngày đối với các thủ tục về môi trường. Chúng ta đã về đích hoàn thành mục tiêu của Chính phủ về phát triển Chính phủ điện tử với 100% thủ tục được thực hiện trực tuyến, 80% ở cấp độ 4; việc xử lý, giải quyết hồ sơ, ký số được thực hiện hoàn toàn trên môi trường mạng (trừ văn bản mật).

Từng bước thiết lập nền tảng tài nguyên số để phát triển kinh tế số ngành TN&MT với cơ sở dữ liệu về thông tin địa lý (dự kiến vận hành vào năm 2022), dữ liệu viễn thám, số hóa cơ sở dữ liệu đất đai của 216 đơn vị cấp huyện với 8,63 triệu hồ sơ địa chính điện tử, số hóa thông tin địa chính của 42.984 thửa đất.

Chúng ta không chỉ đảm bảo các điều kiện tài nguyên đầu vào cho nền kinh tế như: Quỹ đất cho triển khai các dự án hạ tầng, thu hút, đón nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh,… mà còn đóng góp nguồn thu ngân sách. Thu ngân sách từ đất năm 2021 đạt trên 172,25 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,2% tổng thu ngân sách nội địa, cao gấp 3,5 lần năm 2015. Nếu tính từ năm 2016 đến nay, thu từ nguồn lực đất đai đạt hơn 1,05 triệu tỷ. Nguồn thu từ tài nguyên nước ước đạt khoảng 5.900 tỷ đồng, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đạt 5.715 tỷ đồng. Đây là nguồn lực quan trọng của đất nước cho phục hồi kinh tế, phòng chống dịch, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

Với sự điều hành sáng tạo trong vòng 3 tháng, Bộ TN&MT đã trình Chính phủ ban hành 3 nghị quyết chuyên đề giải quyết tình trạng thiếu vật liệu cho phát triển hệ thống giao thông trọng điểm, nguyên liệu cho sản xuất sắt thép.

Lợi thế về biển đang được phát huy, các địa phương có biển đã trở thành khu vực phát triển năng động, thu hút nguồn lực đầu tư, tạo động lực phát triển, mở cửa.

Vấn đề môi trường, khí hậu được đặt ở vị trí ưu tiên cao nhất trong chương trình nghị sự, kế hoạch phát triển của đất nước với mục tiêu bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường. Năm 2021, năm đánh dấu bước chuyển biến với hệ thống pháp luật được xây dựng đồng bộ, các chỉ tiêu về môi trường hoàn thành vượt mục tiêu. Bài toán về rác thải đã có lời giải với các dự án đã, đang triển khai sẽ xử lý 30% rác thải sinh hoạt theo hình thức đốt rác phát điện đạt 157 MW. Kinh tế tuần hoàn bước đầu đã được phát triển công nghiệp tái chế, xử lý rác thải, nước thải tăng 3%.

Trước các tác động ngày càng cực đoan, khó lường của BĐKH, ngành đã chủ động tham mưu cho Chính phủ các giải pháp chiến lược, cam kết mạnh mẽ, hết sức thực tiễn trong giải quyết thách thức chung lớn nhất của toàn cầu. Qua đó, mở ra nhiều cơ hội chuyển dịch mô hình tăng trưởng, tiếp cận tri thức, công nghệ, tài chính cho ứng phó với BĐKH, đặc biệt là các dòng tín dụng, đầu tư cho hạ tầng ứng phó với BĐKH, chuyển đổi năng lượng.

Trong đại dịch, đội ngũ cán bộ KTTV vượt khó để cho ra các bản tin dự báo thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất, kinh doanh, phòng, chống giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Qua đó, thiệt hại về người giảm 54%, thiệt hại về tài sản giảm 78% so với trung bình 10 năm vừa qua.

Nỗ lực của toàn ngành TN&MT được người dân, đánh giá, ghi nhận cao qua chỉ số hài lòng từ phía người dân. Năm 2021, tỷ lệ người dân hài lòng về dịch vụ công về đất đai, môi trường tăng 4,14%; tỷ lệ doanh nghiệp phản ánh sự phiền hà trong thực hiện thủ tục hành chính giảm 7%, phải trả chi phí không chính thức về đất đai giảm 4% (theo báo cáo PCI). Tỷ lệ người dân quan ngại về môi trường giảm từ 8,85% năm 2019 xuống còn 4,03%. Bộ TN&MT xếp thứ 5 trong số các Bộ, ngành về chỉ số cải cách hành chính. Các chỉ số về BVMT đã đóng góp quan trọng đưa chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam ở vị trí 51/165 quốc gia và vùng lãnh thổ tăng 37 bậc so với năm 2016 (vị trí 88).

Những kết quả đáng tự hào đó đạt được là nhờ quyết tâm của cả hệ thống chính trị, toàn dân, đặc biệt là nỗ lực, cố gắng, tinh thần trách nhiệm, đổi mới, sáng tạo của từng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong Ngành.

Xây dựng nền tảng để thực hiện mục tiêu trong thập niên phát triển bền vững

Phóng viên: Tại COP26, cam kết mạnh mẽ được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đưa ra sẽ đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 rất phù hợp với xu hướng phục hồi xanh hậu COVID-19 và nền kinh tế nhân văn lấy con người làm trung tâm như Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã thông qua. Thưa Bộ trưởng, tuyên bố mang tính lịch sử này có ý nghĩa như thế nào đối với nước ta hiện nay? Chúng ta sẽ tận dụng cơ hội này như thế nào để chuyển đổi nền kinh tế xanh?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu đồng thời có tổng lượng phát thải khí nhà kính hàng năm lớn (hiện đứng thứ 21 trên thế giới và đứng thứ 2 trong ASEAN).

Tại Hội nghị COP26, Đoàn cấp cao của Việt Nam đã tham gia và phát biểu tại các phiên họp, sự kiện quan trọng có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của Việt Nam như: Hội nghị Thượng đỉnh về BĐKH, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thoả thuận Paris để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; tham gia sự kiện công bố cam kết giảm phát thải mê-tan toàn cầu; công bố Tuyên bố Glasgow của các lãnh đạo về rừng và sử dụng đất,… Điều đó đã thể hiện tầm nhìn thời đại, quyết tâm và cam kết chính trị rất cao của Đảng, Nhà nước trong việc đẩy mạnh chuyển đổi kinh tế nhằm góp phần giải quyết khủng hoảng khí hậu. Đồng thời, những tuyên bố chính trị của Thủ tướng Chính phủ cho thấy vị thế, trách nhiệm của Việt Nam trong giải quyết những thách thức nghiêm trọng của toàn cầu đồng thời cũng chính là giúp Việt Nam vượt qua thách thức nghiêm trọng do BĐKH hiện nay.

Chúng ta cũng đã tham gia nhiều sáng kiến rất quan trọng như cam kết không xây dựng mới điện than; cam kết về bảo vệ rừng và sử dụng đất hợp lý; tham gia liên minh thích ứng với BĐKH toàn cầu; cùng các quốc gia thảo luận dẫn đến đồng thuận thông qua Gói Thoả thuận Khí hậu Glasgow. Đây là những cam kết rất mạnh mẽ của Việt Nam, hòa cùng với xu thế chung của nhân loại, xu thế hành động mạnh mẽ về phát triển ít phát thải. Các cam kết của Việt Nam đã được các nhà Lãnh đạo các nước, các tập đoàn lớn trên thế giới đánh giá cao.

Trên thực tế, để đưa ra cam kết trên, ngay trước thời điểm chính thức tham dự COP26, Việt Nam đã có sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng; trong đó có việc đưa vấn đề ứng phó với BĐKH, các cam kết của Việt Nam thực hiện Thoả thuận Paris vào Luật BVMT năm 2020, Nghị định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone; xây dựng các quy định thực hiện giảm nhẹ, thích ứng với BĐKH đáp ứng yêu cầu minh bạch,…

Thỏa thuận đạt được mang lợi ích kép cho Việt Nam. Trước hết, là quốc gia chịu tác động của BĐKH, chúng ta có lợi ích rất lớn từ cam kết giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu ở ngưỡng 1,50C giảm nhẹ thiệt hại đối với các đồng bằng ven biển; phát huy được tiềm năng về các nguồn năng lượng tái tạo. Thứ hai, chúng ta có thể tiếp cận được với sự dịch chuyển các dòng vốn tín dụng, đầu tư toàn cầu, cũng như đáp ứng được sự thay đổi về “luật chơi” mới về thương mại, kinh tế toàn cầu. Qua đó, mở ra nhiều cơ hội chuyển dịch mô hình tăng trưởng, tiếp cận tri thức, công nghệ, tài chính cho ứng phó với BĐKH, đặc biệt là các dòng tín dụng, đầu tư cho hạ tầng ứng phó với BĐKH, chuyển đổi năng lượng.

Chúng ta đã rất khẩn trương triển khai thực hiện cam kết với việc trình Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH và xây dựng đề án để triển khai thỏa thuận.

Trong thời gian tới, sẽ tập trung hoàn thiện Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với lộ trình đưa phát thải ròng của Việt Nam về “0” vào năm 2050. Hoàn thiện các cơ chế chính sách, có những giải pháp đột phá trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để hợp tác phát triển và thực hiện các dự án về chuyển đổi năng lượng. Đồng thời, tăng cường phổ biến, tuyên truyền để người dân và doanh nghiệp hiểu được những cơ hội, lợi ích lâu dài từ việc tham gia các sáng kiến toàn cầu về giảm phát thải khí nhà kính, cũng như những thách thức trong ngắn hạn về chuyển đổi năng lượng, chuyển từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo. Đây là việc cần thực hiện có lộ trình phù hợp. Tâm lý vì lợi ích trước mắt, bỏ qua lợi ích lâu dài còn sâu vào nếp nghĩ, cách làm của toàn xã hội,…

Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải chuẩn bị nguồn nhân lực trong nước thật tốt đáp ứng để áp dụng các công nghệ, quy trình sản xuất tiên tiến.

Xây dựng nền tảng để thực hiện mục tiêu trong thập niên phát triển bền vững

Phóng viên: Một trong những nội dung rất quan trọng của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là phát triển theo mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Xin Bộ trưởng cho biết thêm về mô hình phát triển mới này. Theo Bộ trưởng, đâu là những giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong thời gian tới?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Trên thế giới hiện nay, bên cạnh các mô hình như kinh tế xanh, kinh tế phát thải các-bon thấp thì kinh tế tuần hoàn được coi là chìa khóa để giải quyết yêu cầu về sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên, giải quyết ô nhiễm môi trường, ứng phó với BĐKH, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Đây là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất, loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường. Kinh tế tuần hoàn giúp tận dụng được nguồn nguyên vật liệu đã qua sử dụng thay vì tiêu tốn chi phí xử lý; giảm thiểu khai thác tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa giá trị tài nguyên; hạn chế tối đa chất thải, khí thải ra môi trường.

Đối với xã hội, kinh tế tuần hoàn giúp giảm chi phí xã hội trong quản lý, BVMTvà ứng phó với BĐKH; tạo ra thị trường mới, cơ hội việc làm mới, nâng cao sức khoẻ người dân,...

Đối với doanh nghiệp, kinh tế tuần hoàn góp phần giảm rủi ro về khủng hoảng thừa sản phẩm, khan hiếm tài nguyên; tạo động lực để đầu tư, đổi mới công nghệ, giảm chi phí sản xuất, tăng chuỗi cung ứng,...

Phát triển kinh tế tuần hoàn đang trở thành một trong những xu thế chủ đạo. Bài học thành công của các nước như: Hà Lan, Đức, Phần Lan và Đan Mạch, Canada, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore là kinh nghiệm để Việt Nam phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn, cũng như thúc đẩy hợp tác nhằm tiếp nhận chuyển giao các công nghệ về thiết kế, chế tạo, chuyển đổi số.

Để thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, vừa qua chúng ta đã hoàn thiện thể chế với việc ban hành Luật BVMT và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó: Quy định trách nhiệm cụ thể của nhà sản xuất trong việc thu hồi, tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường; phát triển công nghiệp môi trường, thị trường hàng hóa và dịch vụ môi trường, sản phẩm thân thiện môi trường,… quản lý dự án theo vòng đời, thiết lập lộ trình xây dựng và áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường (phát thải và công nghệ) tương đương với nhóm các quốc gia tiên tiến trong khu vực.

Thực hiện các giải pháp để chuyển đổi mô hình kinh tế như: Điều chỉnh quy hoạch năng lượng, giảm dần sự phụ thuộc vào các dạng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch, thủy điện; xây dựng lộ trình chuyển đổi công nghệ dựa trên các tiêu chí tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, giảm thiểu chất thải.

Chú trọng ngay từ khâu quy hoạch, kế hoạch, thiết kế sản xuất, thiết kế sản phẩm để tăng cường kết nối chuỗi sản xuất tuần hoàn. Lựa chọn một số ngành, lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thực hiện theo mô hình kinh tế tuần hoàn như: Công nghiệp giấy, sản xuất sắt, thép, nhiệt điện, quản lý nước theo chu trình. Phát triển các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, trung tâm nhiệt điện theo mô hình tuần hoàn.

Trong thời gian tới, cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền rộng rãi trong toàn xã hội về yêu cầu thực tiễn, vai trò, ý nghĩa, lợi ích và tầm quan trọng của phát triển kinh tế tuần hoàn, trong đó, cộng đồng doanh nghiệp và người dân đóng vai trò trung tâm.

Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, lấy chuyển đổi số và ứng dụng thành tựu của Cách mạng Công nghiệp 4.0 làm động lực để phát triển kinh tế tuần hoàn.

Phát huy nội lực, tranh thủ hỗ trợ quốc tế để thực hiện các cam kết của Việt Nam; khuyến khích, huy động cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân tăng cường đầu tư vào phát triển kinh tế tuần hoàn.

Phóng viên: Năm 2022, ngành TN&MT đứng trước nhiều cơ hội và có cả không ít thách thức. Xin Bộ trưởng cho biết Ngành sẽ cần tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt nào để chuyển hóa khó khăn, tạo cơ hội và động lực cho sự phát triển?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Đời sống kinh tế - xã hội thế giới đang thay đổi nhanh chóng, “luật chơi mới” về đầu tư, thương mại đã hình thành sau Hội nghị COP26. Phục hồi xanh sau đại dịch Covid-19, mục tiêu trung hòa các-bon, chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo cùng với bảo vệ, khôi phục hệ sinh thái tự nhiên đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Đòi hỏi phải tạo ra những thay đổi cơ bản trong tư duy và hành động, nắm bắt xu thế của thời đại, phải trở thành những người tiên phong đổi mới đột phá về thể chế, thực hiện các cam kết quốc tế về môi trường và khí hậu. Ngành TN&MT sẽ thực hiện sâu sắc phương châm “Kỷ cương, trách nhiệm, đổi mới, hội nhập, hiệu quả” trong năm 2022.

Trước hết, tập trung hoàn thiện đồng bộ thể chế trong đó trọng tâm là: Hoàn thành tổng kết Nghị quyết số 19 về đất đai trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết mới; Tổng kết Nghị quyết số 24 về tăng cường quản lý tài nguyên, BVMT và chủ động ứng phó với BĐKH; xây dựng, trình Quốc hội dự án Luật Đất đai (sửa đổi); xây dựng Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) với mục tiêu cao nhất tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Các nguồn tài nguyên phải được điều tra, đánh giá, thống kê, kiểm kê, quy hoạch và hạch toán đầy đủ, phân bổ hợp lý cho phát triển trước mặt và lâu dài. Nguồn lợi từ tài nguyên phải được tái đầu tư cho tương lai bền vững.

Hoàn thiện để trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về khoáng sản; Tổng kết đánh giá và lập hồ sơ đề nghị xây dựng Dự án Luật Địa chất và Tài nguyên khoáng sản. Trình Quốc hội Quy hoạch sử dụng không gian biển quốc gia và xây dựng đồng bộ hệ thống quy hoạch về TN&MT.

Hai là, bên cạnh việc quản lý, sử dụng khai thác tiết kiệm, hiệu của các nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn hữu hạn; ngành TN&MT sẽ tiếp tục xây dựng tạo lập tài nguyên số từ các dữ liệu lớn về đất đai, thông tin địa lý, quan trắc, viễn thám, dữ liệu khí hậu để thực hiện mục tiêu kinh tế hóa TN, MT và phát triển kinh tế số.

Ba là, tiếp tục phân cấp thẩm quyền đi đôi với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi, thượng tôn pháp luật; tập trung thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, xử lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm pháp luật, thất thoát, lãng phí, trong quản lý TN&MT, các hành vi nhũng nhiễu, hành dân gây bức xúc trong dư luận. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với tạo dựng môi trường đổi mới sáng tạo.

Bốn là, triển khai Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; tập trung rà soát tình trạng lãng phí đất đai, đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường, các dự án có vướng mắc sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán,... trên phạm vi cả nước lập các tổ công tác liên ngành của trung ương và địa phương xử lý, giải quyết đưa quỹ đất vào sử dụng hiệu quả, giải phóng nguồn lực cho phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội. Xây dựng được các giải pháp chiến lược tổng thể về an ninh tài nguyên nước, bao gồm các chủ trương, đối sách trong chia sẻ tài nguyên nước xuyên biên giới.

Phát triển các ngành kinh tế biển, hành lang kinh tế ven biển, điện gió ngoài khơi, khai hoang, lấn biển. Ứng dụng phương pháp, công nghệ tiên tiến trong quản trị tài nguyên khoáng sản.

Năm là, đặt môi trường, khí hậu ở vị trí ưu tiên cao nhất trong chương trình nghị sự, kế hoạch phát triển và thu hút đầu tư. Triển khai hiệu quả Luật BVMT, chặn đà và từng bước đảo ngược xu thế suy thoái về môi trường, các hệ sinh thái; phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh dựa vào sự cân bằng và khả năng cung ứng của hệ sinh thái. Thu hút nguồn lực xã hội trong xử lý chất thải, rác thải theo mô hình đốt rác, phát điện, tái chế thay cho chôn lấp.

Sáu là, thực hiện giải pháp chiến lược, đột phá triển khai kết quả Hội nghị COP26; hoàn thiện thể chế, chính sách; thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi, chủ động tận dụng các cơ hội hợp tác, tiếp cận công nghệ, và đón đầu các dòng vốn đầu tư xanh vào hạ tầng ứng phó với BĐKH, chuyển đổi năng lượng phục vụ chuyển đổi mô hình phát triển. Hiện đại hóa công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thuỷ văn, giám sát biến đổi khí hậu; giám sát, dự báo, cảnh báo thiên tại kịp thời, tin cậy.

Bảy là, điều tra, đánh giá đầy đủ, thực chất tiềm năng các nguồn tài nguyên, kiểm kê, lượng hóa để hạch toán đầy đủ trong nền kinh tế; áp dụng phương pháp tiên tiến trong quản trị tài nguyên. Tìm kiếm các loại vật liệu mới, năng lượng sạch, bền vững.

Tám là, tăng cường hợp tác quốc tế nhất là ngoại giao về khí hậu, môi trường, chia sẻ khai thác tài nguyên nước xuyên biên giới, tài nguyên biển. Kiện toàn tổ chức bộ máy, cắt giảm các tổ chức trung gian nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ. Tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến trong quản lý, sử dụng TN&MT.

Phóng viên: Một mùa xuân mới lại đang về, Bộ trưởng có gửi gắm gì với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành TN&MT?

Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Khép lại một năm đầy khó khăn, nhưng với tinh thần đổi mới, sáng tạo, hiệu quả, sự nỗ lực phấn đấu của mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ở từng vị trí công tác, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng đóng góp vào phát triển chung của đất nước.

Xu thế của thế giới hậu COVID-19 sẽ là tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, giảm khai thác tài nguyên thiên nhiên, chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo cùng với bảo vệ, khôi phục hệ sinh thái tự nhiên. Tôi mong các đồng chí tiếp tục phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo để tận dụng các cơ hội, phát huy các tiềm lực về tài nguyên đóng góp cho tăng trưởng, phát triển bền vững dựa trên các hệ sinh thái; bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân.

Nhân dịp Xuân mới Nhâm Dần, tôi chúc các cán cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Ngành cùng gia đình một năm dồi dào sức khỏe, hạnh phúc, thành công!

Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

Đăng Tuyên (thực hiện)