
Ảnh minh họa
Hiện trạng tro, xỉ và nguy cơ ô nhiễm môi trường
Đầu năm 2019, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đã tổ chức Hội nghị giải trình về tình hình xử lý tro, xỉ của các NMNĐ than, chất thải thạch cao phosphogymsum và xỉ lò của các nhà máy sản xuất phân bón, hóa chất. Số liệu từ ban tổ chức hội nghị cho thấy, các NMNĐ đang tiêu thụ khoảng 47,8 triệu tấn than/năm với lượng tro xỉ, thạch cao thải ra hàng năm hơn 16,4 triệu tấn/năm. Dự kiến năm 2020, sẽ có thêm nhiều dự án nhiệt điện được đưa vào hoạt động, tiêu thụ khoảng 60 triệu tấn than/năm, phát sinh khoảng 20,5 triệu tấn tro xỉ, thạch cao.
Báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cũng cho biết, trong năm 2017, tổng sản lượng điện sản xuất của các NMNĐ than là 67,56 tỷ kWh, chiếm 34,1% tổng sản lượng toàn quốc. Theo Quy hoạch điện 7 hiệu chỉnh, dự kiến đến năm 2020, sản lượng các NMNĐ than sẽ chiếm 42,7% và tăng lên 49,3% trong năm 2025. Tương ứng với đó là khối lượng tro, xỉ phát sinh của các NMNĐ than là 15 triệu tấn năm 2020 và tăng lên 20 triệu tấn vào năm 2025.
Các quốc gia trên thế giới luôn khuyến khích sử dụng tro, xỉ, thạch cao trong xây dựng đường giao thông, làm phụ gia sản xuất xi măng, bê tông và VLXD. Tro, xỉ nếu đạt yêu cầu dùng làm phụ gia cho việc sản xuất xi măng sẽ làm giảm chi phí sản xuất; bê tông dùng tro bay sẽ làm giảm lượng xi măng và làm tăng tính bền chắc của công trình. Ngoài ra, tro, xỉ, thạch cao còn được sử dụng để làm chất liên kết, gia cố các công trình giao thông, sản xuất gạch không nung, bê tông nhẹ, làm tấm trần, tường thạch cao, gốm sứ rất hiệu quả. Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc tiêu thụ, sử dụng tro, xỉ, thạch cao còn chậm so với yêu cầu. Một số cơ sở, nhà máy phát thải ra tro, xỉ không đạt tiêu chuẩn làm nguyên liệu sản xuất VLXD; chưa thực hiện phân loại riêng biệt tro và xỉ. Nếu không có giải pháp hiệu quả để tái sử dụng, sẽ vừa gây lãng phí nguồn tài nguyên, vừa tiềm ẩn nguy cơ ONMT đất, nước và không khí khu vực xung quanh, vừa nảy sinh các vấn đề xã hội khác.
Hiện nay, ngoài một phần tro, xỉ được các đơn vị tiếp nhận và tái sử dụng, phần còn lại của tro, xỉ thải ra từ các tổ máy được vận chuyển và lưu giữ tại các bãi thải của NMNĐ. Bãi chứa xỉ được thiết kế bảo đảm chống rò rỉ ra môi trường. Đối với các nhà máy có đơn vị thu mua xử lý tro, xỉ, chúng được lấy trực tiếp từ các xilo tại nhà máy, hoặc khai thác ngoài bãi chứa xỉ và được vận chuyển đi bằng xe bồn kín, bảo đảm chống phát tán bụi ra môi. Tổng khối lượng tro, xỉ đang còn lưu giữ tại bãi chứa xỉ của các NMNĐ là gần 15 triệu tấn, trong đó tập trung tại các NMNĐ Quảng Ninh (4,8 triệu tấn), Vĩnh Tân (3,9 triệu tấn), Duyên Hải (1,8 triệu tấn), Mông Dương 1 (1,7 triệu tấn).
Việc tiêu thụ tro, xỉ của các NMNĐ than khu vực phía Bắc đã được thực hiện và dẫn đầu cả nước. Hầu hết các nhà máy đã tìm và ký hợp đồng với các đối tác để tiêu thụ phần lớn lượng tro, xỉ. Điển hình như các NMNĐ Phả Lại và Ninh Bình đã tiêu thụ hết hoàn toàn lượng tro, xỉ. Tro, xỉ của các NMNĐ than của EVN đã được sử dụng trong các lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng như bê tông, xi măng, gạch không nung, cấu kiện xây dựng… Tại 2 công trình thủy điện lớn là Sơn La và Lai Châu đã sử dụng công nghệ bê tông đầm lăn, trong đó thành phần khối lượng tro bay tương đối lớn được tuyển chọn từ tro bay của NMNĐ Phả Lại. Riêng khu vực Quảng Ninh có NMNĐ Quảng Ninh và Mông Dương 1, khối lượng tro, xỉ chưa tiêu thụ còn nhiều. Đặc biệt là Nhiệt điện Mông Dương 1, lượng tro, xỉ chứa tại nhà máy đã gần đạt đến dung lượng tối đa của bãi thải. Vì vậy, để nhà máy tiếp tục hoạt động ổn định, cần khẩn trương tìm giải pháp để tiêu thụ lượng tro, xỉ đang tiếp tục phát sinh.
Đối với các NMNĐ than khu vực phía Nam là Duyên Hải và Vĩnh Tân, cho đến nay khối lượng tro, xỉ được tiêu thụ vẫn chưa đáng kể. Lượng tro xỉ phát sinh hàng năm rất lớn, gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường, bức xúc cho người dân. Trong khi đó, số được tiêu thụ, xử lý hàng năm lại chưa cao. Và nếu những tồn tại trong việc xử lý tro xỉ của nhà máy nhiệt điện không được giải quyết sớm thì sẽ xuất hiện những quả đồi, ngọn núi tro xỉ, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.
Những giải pháp đặt ra
Nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, giảm thiểu khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính và ONMT, giảm chi phí xử lý phế thải của các ngành công nghiệp, tiết kiệm nhiên liệu than, đem lại hiệu quả kinh tế chung cho toàn xã hội, từ năm 2010 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 567/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây dựng không nung đến năm 2020. Tiếp theo đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1696/QĐ-TTg ngày 23/9/2014 về một số giải pháp thực hiện xử lý tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất phân bón để làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng (VLXD). Cách đây hơn hai năm, Thủ tướng tiếp tục ban hành Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 12/4/2017 phê duyệt Đề án đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất, phân bón làm nguyên liệu sản xuất VLXD với mục tiêu:
Phải xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao đảm bảo đáp ứng lượng tồn trữ tại bãi chứa của từng nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất, phân bón nhỏ hơn tổng lượng phát thải của 2 năm sản xuất.
Đến năm 2020, xử lý và sử dụng tro, xỉ, thạch cao FGD, thạch cao PG làm nguyên liệu sản xuất VLXD và sử dụng trong các công trình xây dựng đạt khoảng 52% tổng lượng tích luỹ (khoảng 75 triệu tấn, bao gồm 56 triệu tấn tro, xỉ nhiệt điện; 2,5 triệu tấn thạch cao FGD; 16,5 triệu tấn thạch cao PG).
Ngày 28/9/2018, Bộ KH&CN đã có Quyết định số 2847 công bố tiêu chuẩn quốc gia “TCVN 12249:2018 Tro xỉ nhiệt điện đốt than làm vật liệu san lấp – Yêu cầu chung”. Đối với các tiêu chuẩn, chỉ dẫn kỹ thuật và định mức kinh tế kỹ thuật đã được nêu tại công văn số 1584/BXD-VLXD ngày 29/06/2018. Việc ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan đến xử lý, sử dụng tro, xỉ nhiệt điện làm VLXD chỉ là một phần việc trong Đề án đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các NMNĐ, nhà máy hóa chất phân bón làm nguyên liệu sản xuất VLXD và trong các công trình xây dựng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định số 452/QĐ-TTg. Trong đề án này, Thủ tướng Chính phủ giao cho các bộ ngành như: Công thương; TN&MT; GTVN; NN&PTNT; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng có trách nhiệm ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn, các cơ chế chính sách để thúc đẩy việc tiêu thụ tro xỉ, giảm thiểu nguy cơ ÔNMT.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ, Bộ TN&MT cũng đã có hướng dẫn quản lý tro, xỉ phát sinh từ các NMNĐ:
Thứ nhất, theo quy định của Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT về quản lý chất thải nguy hại (CTNH), tro bay phát sinh từ các NMNĐ từ quá trình sử dụng nhiên liệu hydrocacbon dạng nhũ tương được phân định là CTNH trong mọi trường hợp (loại **); Các loại tro, xỉ phát sinh từ các quá trình sử dụng nhiên liệu khác (ví dụ như than) là loại chất thải có khả năng là CTNH (loại *) và cần phân định CTNH theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 07:2009/BTNMT về ngưỡng CTNH để có biện pháp quản lý phù hợp.
Thứ hai, đối với việc phân định CTNH theo quy định của QCVN 07:2009/BTNMT: (i) việc phân định CTNH chỉ phải tiến hành một lần (không phải tiến hành định kỳ), trừ trường hợp có sự thay đổi về nguyên vật liệu, nhiên liệu, quy trình sản xuất hoặc các quá trình khác liên quan đến quá trình phát sinh chất thải. (ii) Không nhất thiết phải phân tích tất cả các thành phần nguy hại được quy định tại QCVN 07: 2009/BTNMT, mà cần căn cứ vào tính chất nguyên vật liệu, nhiên liệu, quy trình sản xuất, đặc điểm nguồn thải, quá trình phát thải để xác định các thành phần có thể có trong chất thải để phân tích. Nếu nguyên vật liệu, nhiên liệu, quy trình sản xuất hoặc quá trình phát thải không liên quan đến các chất có chứa thành phần nguy hại nào thi không phải phân tích thành phần đó. (iii) Đối với trường hợp tro, xỉ phát sinh từ nhà máy nhiệt điện từ quá trình sử dụng than làm nhiên liệu: Chỉ cần phân tích các thành phần nguy hại vô cơ có thể có trong tro, xỉ (các kim loại nặng) và thành phần dầu (có thể phát sinh khi sử dụng dầu trong quá trình khởi động ban đầu hoặc khởi động lại sau khi bị sự cố, bảo dưỡng định kỳ, điều chỉnh hệ thống...) để phân định CTNH. Lưu ý, theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu, chủ nguồn thải CTNH tự chịu trách nhiệm về việc phân định, phân loại và xác định số lượng CTNH và báo cáo với cơ quan quản lý.
Thứ ba, theo Quyết định số 452/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các NMNĐ, nhà máy hóa chất, phân bón làm nguyên liệu sản xuất VLXD và trong các công trình xây dựng, tro, xỉ (trước hoặc sau khi xử lý) đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật làm nguyên liệu sản xuất VLXD và sử dụng trong các công trình xây dựng được coi là sản phẩm hàng hóa VLXD, được điều chỉnh theo quy định của pháp luật về sản phẩm hàng hóa.
Thứ tư, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 40/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật BVMT, trong đó có quy định cụ thể hơn về quản lý tro, xỉ phát sinh từ các NMNĐ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ, sử dụng tro xỉ đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Đối với tro, xỉ không thể sử dụng được làm nguyên liệu sản xuất VLXD, san lấp mặt bằng, sử dụng trong các công trình xây dựng hoặc hoàn nguyên mỏ thì được quản lý như đối với chất thải.
Là đơn vị sở hữu nhiều NMNĐ than nhất trong hệ thống điện, đóng góp gần 2/3 tổng khối lượng tro xỉ của các NMNĐ than tại Việt Nam, EVN có vai trò và trách nhiệm rất lớn trong việc đẩy mạnh tái sử dụng tro, xỉ của các NMNĐ. Thực hiện Quyết định số 452/QĐ-TTg, EVN đã đề ra một số giải pháp: Nâng cao hiệu suất vận hành các NMNĐ: Giải pháp này nhằm nâng cao hiệu quả đốt than của các nhà máy, giảm lượng tro, xỉ thải ra. EVN đã nghiên cứu và triển khai thực hiện một số nội dung: Có phương thức vận hành các lò máy, tổ máy phát tối ưu để đạt hiệu suất cao nhất; điều chỉnh chế độ đốt cháy phù hợp; triển khai giải pháp đốt than trộn, nâng cao hiệu suất và giảm tối đa tro xỉ thải ra. Tăng cường công tác BVMT: Mục tiêu của giải pháp này nhằm bảo đảm các nhà máy điện tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, tuyệt đối không để xảy ra sự cố môi trường. Theo đó, EVN cùng các đơn vị tiếp tục nâng cao ý thức về BVMT. Tập trung quản lý và chuyển giao tro, xỉ cho các đối tác vận chuyển, xử lý theo đúng quy định pháp luật. Lựa chọn các đơn vị có khả năng xử lý tro, xỉ: Gải pháp này nhằm tìm kiếm, lựa chọn và tạo điều kiện cho các đối tác có đủ điều kiện và năng lực xử lý tro, xỉ. Yêu cầu các đối tác phải đáp ứng công tác BVMT trong suốt quá trình khai thác, vận chuyển, xử lý.
NGUYỄN VĂN NAM
Khoa Trắc địa Bản đồ và Thông tin địa lý
Đại học TN&MT Hà Nội