news

Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam: Thành tựu và định hướng phát triển

Thứ sáu, 12/12/2025, 08:53 (GMT+7)
logo Lĩnh vực nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đã chuyển mạnh từ sản xuất tự cung tự cấp sang nhóm ngành xuất khẩu chủ lực, hiện có mặt tại gần 200 quốc gia với kim ngạch tăng trưởng ấn tượng. Bài phân tích làm rõ tiềm năng, thách thức về chất lượng và chuỗi giá trị, đồng thời đề xuất các giải pháp công nghệ, xây dựng thương hiệu và đa dạng hóa thị trường, hướng đến mục tiêu phát triển đến năm 2030.

Việt Nam có lợi thế về phát triển nông nghiệp. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, có nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Trong 40 năm đổi mới và nhất là từ khi triển khai và thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 7 khóa X và Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện đồng bộ các chương trình, đề án và cơ chế chính sách, Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Nhờ đó, nông nghiệp được cơ cấu lại và phát triển theo hướng sinh thái, nâng cao giá trị gia tăng, duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao; thị trường tiêu thụ được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản liên tục tăng qua các năm, nông sản Việt Nam có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, xuất khẩu nông lâm thủy sản cũng có những khó khăn, thách thức từ nội tại, từ biến đổi khí hậu và dịch bệnh, từ xung đột quân sự, cạnh tranh thương mại giữa các nước. Trước bối cảnh và yêu cầu của thời kỳ mới, đòi hỏi phải tiếp tục định hướng chiến lược mở cửa thị trường, thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản hiệu quả.

z7143139645307_1c0eef5b1a26900ee3630405beb2e0d8_1761187400_1765461787.webp
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến

          I. TIỀM NĂNG, LỢI THẾ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ XUẤT KHẨU NÔNG LÂM THỦY SẢN

- Nông nghiệp là lợi thế quốc gia. Việt Nam là nước có lợi thế cạnh tranh về phát triển nông nghiệp nhiệt đới với điều kiện sinh thái đa dạng, số giờ nắng nhiều, nguồn nước dồi dào, nông dân có kỹ năng, cần cù chịu khó. Đây chính là tiền đề để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn tạo ra những bước phát triển vượt bậc trong đảm bảo an ninh lương thực, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu và tạo ra sự quan tâm của doanh nghiệp đối với ngành nông nghiệp Việt Nam. Tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam đạt mức trung bình 3,7%/năm trong giai đoạn 2021 - 2025. Nhiều mặt hàng có năng suất cao, chi phí sản xuất thấp, có lợi thế cạnh tranh cao và đang từng bước chiếm lĩnh thị trường thế giới. Năng suất lúa gạo cao nhất trong khu vực Đông Nam Á, gần gấp đôi so với Thái Lan và gấp 1,5 lần so với Ấn Độ; năng suất cà phê cao gấp 1,5 lần so với Brazil, gấp 3 lần so với Colombia, Indonesia; năng suất hồ tiêu gấp 3 lần so với Indonesia và 1,3 lần của Ấn Độ; năng suất cá tra cao hơn so với Ấn Độ và Thái Lan.

- Thị trường trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi cho nông nghiệp phát triển. Do quá trình tăng trưởng kinh tế, gia tăng dân số và đô thị hóa, nhu cầu tiêu dùng lương thực, thực phẩm trong nước tăng lên rõ rệt đối với hầu hết các nông sản, từ các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu như lúa gạo, rau quả, thịt lợn đến các sản phẩm có giá trị cao hơn như thịt bò, thủy sản và cả các sản phẩm cao cấp như đồ gỗ nội thất, hoa, cây cảnh, rau quả hữu cơ, dược liệu, sữa… Hội nhập quốc tế mạnh mẽ và việc tham gia các hiệp định thương mại quốc tế, Việt Nam là đối tác chiến lược - toàn diện của tất cả với trên 17 FTAs đã ký kết giúp Việt Nam phát huy được lợi thế cạnh tranh, mở rộng thị trường, tăng khối lượng xuất khẩu.

- Nông nghiệp Việt Nam còn nhiều dư địa để phát triển, đặc biệt là phát triển các sản phẩm chế biến, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao và các sản phẩm ứng dụng công nghệ cao. Trình độ khoa học trên thế giới ngày càng phát triển và hội nhập mạnh mẽ cũng tạo cơ hội tốt cho các doanh nghiệp nông nghiệp có thể tăng cường đầu tư nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Những công nghệ giống mới cho năng suất cao, chất lượng tốt, giảm chi phí giá thành trong sản xuất; công nghệ chế biến bảo quản ngày càng phát triển giúp doanh nghiệp nâng cao giá trị hàng nông sản. Ngành chế biến và phân phối hàng nông lâm thủy sản được coi là một trong những ngành có nhiều tiềm năng và dư địa về thị trường để thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Đây là cơ hội cho ngành nông nghiệp tạo thêm nhiều giá trị gia tăng mới, tạo việc làm và nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân nông thôn.  

- Cơ chế chính sách và khung pháp lý ngày càng được hoàn thiện, thu hút, tạo động lực cho đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; như giai đoạn 2021 - 2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình cấp có thẩm quyền ban hành, ban hành theo thẩm quyền 365 văn bản quy phạm pháp luật, gồm: 04 Luật, 02 Nghị quyết của Quốc hội, 60 Nghị định của Chính phủ, 14 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 285 Thông tư của Bộ trưởng. Các chính sách được ban hành đã và đang phát huy hiệu quả trong huy động nguồn lực cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; hỗ trợ người dân phát triển sản xuất kinh doanh; tạo động lực cho phát triển sản xuất nông nghiệp tập trung, quy mô lớn, xúc tiến thương mại, mở cửa thị trường, thúc đẩy xuất khẩu.

          II. XUẤT KHẨU NÔNG LÂM THỦY SẢN QUA CÁC THỜI KỲ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC

Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo hình thức kế hoạch hóa tập trung, sản xuất chủ yếu phục vụ trong nước, xuất khẩu nông sản chủ yếu theo hình thức trao đổi hàng hóa với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, kim ngạch xuất khẩu rất thấp (dưới 0,5 tỷ USD), chủ yếu là gạo, cao su, chè, thủy sản khô. Từ sau những năm đổi mới, ngành nông nghiệp liên tục tăng trưởng ở tốc độ cao và đạt nhiều thành tựu to lớn, đóng góp trung bình trên 18% cho GDP cả nước và 25 - 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, góp phần quan trọng về đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, thể hiện vai trò, vị thế to lớn đối với phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội và tạo công ăn việc làm cho gần 50% lực lượng lao động. Việt Nam đã nhanh chóng chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp, nhập khẩu nông sản sang nền kinh tế thị trường, đủ khả năng đảm bảo nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy sản với vị thế cao trên thị trường thế giới, cụ thể qua các giai đoạn phát triển như sau:

          1. Giai đoạn trước năm 2000: Việt Nam chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN sau khi thực hiện chính sách đổi mới vào năm 1986, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, trong đó nông lâm thủy sản đóng vai trò quan trọng. Tốc độ tăng xuất khẩu NLTS giai đoạn 1990 - 2000 đạt 15 - 20%/năm; kim ngạch xuất khẩu năm 1990 khoảng 1 tỷ USD và tăng lên 4,3 - 4,5 tỷ USD năm 2000. Các mặt hàng xuất khẩu chính là gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, chè, gỗ xẻ, đồ mộc, tôm đông lạnh, cá tra, mực, cá ngừ. Từ chỗ thiếu lương thực, Việt Nam trở thành mước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới. Thị trường xuất khẩu trong giai đoạn này đã được đa dạng hóa so với trước đổi mới, mở rộng sang khu vực châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Asean), châu Âu và Bắc Mỹ.

          2. Giai đoạn 2001 - 2010: Thương mại nông lâm thủy sản đạt mức tăng trưởng cao và liên tục xuất siêu (trên 2,6 tỷ USD/năm), quy mô thương mại ngày càng được mở rộng cả về thị trường và ngành hàng, hình thành được cơ cấu thị trường xuất khẩu tương đối ổn định. Nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như  thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ, gạo, cà phê, cao su, điều, rau quả, hạt tiêu và chè, trung bình chiếm khoảng gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt vị trí cao trên thị trường thế giới về khối lượng xuất khẩu như gạo (thứ 2), cà phê (thứ 1 về cà phê robusta), hạt tiêu (thứ 1), hạt điều (thứ 2), cao su tự nhiên (thứ 5)… Phạm vi thị trường cũng từng bước được mở rộng và đã có mặt trên 70 nước và vùng lãnh thổ, tại khắp các châu lục (châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ và Mỹ la tinh, châu Phi, Úc và Newzeland) vào năm 2010.

          Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng từ 3,1 tỷ USD năm 2001 lên trên 19,5 tỷ USD năm 2010, đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân khoảng 25,5%/năm. Trong đó, mặt hàng nông sản tăng 17,9%/năm, giá trị tăng từ 2,1 tỷ USD năm 2001 lên trên 10 tỷ USD năm 2010; lâm sản tăng 30%/năm, giá trị gia tăng từ 438,5 triệu USD năm 2001 lên trên 3 tỷ USD năm 2010; mặt hàng thủy sản tăng trung bình 15,1%/năm, giá trị tăng từ trên 1,8 tỷ USD năm 2001 lên trên 4,5 tỷ USD năm 2010.

          Trong giai đoạn này, xuất khẩu nông lâm thủy sản đóng vai trò quan trọng trong tổng GDP nông nghiệp và cơ cấu thương mại hàng hóa (tỷ trọng chiếm khoảng 27,5%), độ mở của ngành nông nghiệp lớn, góp phần trong tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo của Việt Nam.

3. Giai đoạn 2011 - 2020: Mặc dù chịu tác động mạnh của suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính thế giới khiến thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, nhất là những thị trường lớn bị tác động là thị trường chủ lực của nông lâm thuỷ sản Việt Nam như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU nhưng xuất khẩu nông lâm thủy sản vẫn tăng trưởng đáng khích lệ. Năm 2011, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 25,1 tỷ USD, tăng 28,6% so với cùng kỳ và đến năm 2020 đạt mức 42,3 tỷ USD tăng trên 116% so với năm 2010, đưa nước ta trở thành nước xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn trên thế giới với nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Trong đó, xuất khẩu nông sản chính tăng từ 10,56 tỷ USD năm 2010 lên 18,9 tỷ USD năm 2020, tăng trưởng bình quân trên 7,3%/năm; thủy sản tăng từ 5,02 tỷ USD năm 2010 lên 8,4 tỷ USD năm 2020, tăng trưởng bình quân 6,7%/năm; gỗ và sản phẩm gỗ tăng từ 3,44 tỷ USD năm 2010 lên 12,3 tỷ USD năm 2020, tăng bình quân 13,5%/năm, chăn nuôi tăng từ 150 triệu USD đạt 425 triệu USD 2020, tăng 16,3%. Với sự tăng trưởng nhanh trong xuất khẩu nên Việt Nam luôn là nước xuất siêu nông lâm thủy sản, bình quân trong giai đoạn này xuất siêu khoảng 8,5 tỷ USD/năm, năm 2020 Việt Nam xuất siêu đạt 10,9 tỷ USD.

Sản phẩm nông lâm thủy sản của Việt Nam đã có mặt trên 160 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới vào năm 2015 và tăng lên trên 190 nước và vùng lãnh thổ vào năm 2020, với 9 sản phẩm xuất khẩu trên 1 tỉ USD vào năm 2020 là cà phê (2,7 tỷ USD), cao su (2,3 tỷ USD), gạo (3,1 tỷ USD), cá tra (1,4 tỷ USD), tôm (1,7 tỷ USD), điều (3,2 tỷ USD), rau quả (3,2 tỷ USD), sắn (1,1 tỷ USD), gỗ và sản phẩm gỗ (12,3 tỷ USD). Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng các mặt hàng Việt Nam có lợi thế và dư địa phát triển như gỗ và sản phẩm từ gỗ, rau quả, hạt điều và giảm tỷ trọng các mặt hàng gạo, cà phê, cao su, chè. Tỷ trọng sản phẩm chế biến trong xuất khẩu đã có sự gia tăng khi các doanh nghiệp tăng cường đầu tư chế biến, điển hình là các ngành hàng cao su, gỗ, thủy sản. Do đó, tỷ lệ xuất khẩu thô giảm, tăng xuất khẩu các sản phẩm qua chế biến. Tỷ lệ nông sản qua chế biến tăng từ 21,7% năm 2008 tăng lên 45% năm 2019.

Giai đoạn này, sau khi gia nhập WTO vào năm 2007, đặc biệt tham gia các Hiệp định thương mại tự do với ASEAN, Úc - Newzilân, Trung Quốc, Ấn Độ, EU, Nga... nhiều mặt hàng nông lâm thủy sản đã tận dụng việc giảm thuế để mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo cơ hội cho nhiều mặt hàng vươn xa trên thị trường thế giới, chiếm vị trí hàng đầu về sản lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu, tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân.

Hội nhập đã giúp Việt Nam bước đầu vượt qua rào cản thuế quan đối với một số nông sản có thế mạnh xuất khẩu như gạo, thủy sản, tham gia vào cơ chế đấu thầu hạn ngạch quốc tế. Việc gia nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới cũng giúp Việt Nam tiếp cận với nguồn nguyên liệu ổn định hơn cho sản xuất, có chất lượng tốt và giá cả cạnh tranh, thúc đẩy nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất để xuất khẩu. Được hưởng lợi nhiều nhất từ việc cắt giảm thuế là những mặt hàng xuất khẩu như cà phê, gạo, hạt tiêu, điều, cao su, sản phẩm gỗ…

4. Giai đoạn 2021 - 2025: Thế giới diễn ra nhiều biến động phức tạp, khó lường về chính trị, kinh tế, xã hội, tác động trực tiếp và sâu sắc đến ngành nông nghiệp; điển hình là dịch bệnh xuyên biên giới Covid-19 khiến chuỗi cung ứng lương thực toàn cầu bị đứt gãy, sản xuất và lưu thông, tiêu thụ nông sản trong nước gián đoạn; cùng với đó là sự điều chỉnh cấu trúc địa kinh tế chính trị toàn cầu và xung đột quân sự giữa một số quốc gia kéo dài khiến kinh tế thế giới suy giảm, bất ổn. Tuy nhiên, với sự quan tâm, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, ngành nông nghiệp đã vượt qua tác động lớn của dịch bệnh, đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu với kết quả giá trị kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam liên tục tăng trưởng từ 42,3 tỷ USD năm 2020 lên tới 62,5 tỷ USD năm 2024 (tăng 51% sau 5 năm); tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu từ 10 - 18%/năm, ngoại trừ năm 2023 có suy giảm nhẹ 1,5% do tác động của dịch bệnh Covid-19; số lượng mặt hàng duy trì giá trị xuất khẩu trên 01 tỷ USD tăng từ 08 mặt hàng năm 2020 lên tới 11 mặt hàng năm 2024, trong đó mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 03 tỷ USD tăng từ 05 mặt hàng lên 07 mặt hàng, tăng 40% so với năm 2020. Đặc biệt, năm 2024 là một năm bứt phá cả về sản xuất và xuất khẩu khi kim ngạch tăng 18,7% và thặng dư thương mại 17,9 tỷ USD, tăng  46,8% so với năm 2023.

Bước sang năm 2025, sự thay đổi chính sách thuế quan của Hoa Kỳ ngay những tháng đầu năm đã tiếp tục tạo ra những biến động khó lường đối với các nền kinh tế trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, trong 10 tháng đầu năm 2025, tổng giá trị xuất khẩu ước đạt 58,13 tỷ USD (tăng 12,9%) so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản ước đạt 31,3 tỷ USD, tăng 15,5%; chăn nuôi ước đạt 513 triệu USD, tăng 19%; thủy sản ước đạt 9,3 tỷ USD, tăng 12,9%; lâm sản đạt 14,9 tỷ USD, tăng 5,8%; giá trị xuất khẩu của 9/11 nhóm mặt hàng tiếp tục đà tăng trưởng là cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, rau quả, sắn và sản phẩm sắn, chăn nuôi, thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ; 02 mặt hàng suy giảm về giá trị xuất khẩu là gạo (3,7 tỷ USD, giảm 23,8%) và chè (188 triệu USD, giảm 11,2%).

Như vậy, trong giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu NLTS liên tục tăng qua các năm, năm 2021 đạt 48,6 tỷ USD, năm 2022 đạt 53,53 tỷ USD, năm 2023 đạt 53,01 tỷ USD năm 2023, năm 2024 đạt 62,5 tỷ USD và 10 tháng đầu năm 2025 đạt 58,13 tỷ USD, dự kiến cả năm đạt gần 70 tỷ USD và có thể cao hơn nếu thị trường không xuất hiện các yếu tố biến động bất thường. Tốc độ tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu NLTS giai đoạn 2021 - 2024 khoảng 9%/năm (cao hơn mục tiêu đề ra 5%/năm). Cơ cấu thị trường xuất khẩu tiếp tục được giữ ổn định, phạm vi thị trường duy trì với gần 200 nước và vùng lãnh thổ. Việc duy trì và tăng tốc được kim ngạch xuất khẩu những tháng đầu năm 2025 trong bối cảnh khó khăn do thuế đối ứng của Hoa Kỳ cho thấy sự chỉ đạo sát thực tiễn, linh hoạt, quyết liệt, hiệu quả của Thủ tướng Chính phủ và khả năng nhạy bén, chủ động, thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam khi tận dụng, phát huy mọi lợi thế nhằm duy trì các khu vực truyền thống và chuyển hướng, mở rộng xuất khẩu sang các khu vực tiềm năng (Trung Đông, Châu Phi, Châu Âu, Asean), kể cả những mặt hàng có giá trị xuất khẩu còn thấp nhưng có tiềm năng phát triển như sản phẩm chăn nuôi chế biến.

5. Đánh giá chung

a) Kết quả đạt được

- Xuất khẩu NLTS Việt Nam đã có sự chuyển mình mạnh mẽ từ lượng sang chất, từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp thành ngành xuất khẩu trụ cột, hội nhập toàn cầu, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, ổn định cán cân thương mại, phát triển nông thôn và thúc đẩy công nghiệp hóa nông nghiệp. Về kim ngạch xuất khẩu, có sự tăng trưởng vượt bậc từ mức rất thấp trước đổi mới (dưới 0,5 tỷ USD) đã vươn lên tăng gấp gần 20 lần vào giai đoạn 2001 - 2010, tăng gần 40 lần vào giai đoạn 2011 - 2020 và đạt mức kỷ lục vào năm 2024, có khả năng tăng đến 70 lần và đạt gần 70 tỷ USD năm 2025, tốc độ tăng bình quân 10 - 12%/năm. Về thị trường, xuất phát từ một số thị trường xuất khẩu hạn chế trong khu vực các nước XHCN, đã từng bước được mở rộng ra toàn cầu, đến nay đã xuất khẩu tới gần 200 nước và vùng lãnh thổ. Về sản phẩm, từ một số ít chủng loại sản phẩm xuất khẩu ở dạng thô (chủ yếu là gạo, cà phê, chè, cao su) đã được phát triển và đa dạng hóa với hơn 14 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực, gia tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến và chế biến sâu, nhiều sản phẩm xuất khẩu đứng vị trí cao trên thế giới, từng bước hình thành chuỗi giá trị nông nghiệp hiệu quả ở quy mô vừa và nhỏ.    

b) Hạn chế, tồn tại: Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, nhưng xuất khẩu các sản phẩm NLTS của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế như: (i) Xuất khẩu nhiều nhưng giá trị thấp, một số mặt hàng NLTS của Việt Nam đứng đầu thế giới về giá trị xuất khẩu tiêu, điều, tôm, cá tra, cà phê, đồ gỗ nội thất, gạo nhưng thứ hạng về giá xuất khẩu lại thấp, phần nhiều do Việt Nam còn xuất khẩu thô và sơ chế nhiều (chiếm khoảng 60%); (ii) Vẫn còn tình trạng xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào một số thị trường, điển hình là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai thị trường này tới nay chiếm khoảng 43,2% tổng giá trị xuất khẩu NLTS vào năm 2024 và 41,8% trong 10 tháng đầu năm 2025; tuy nhiên tỷ trọng giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc đã có xu hướng giảm từ khoảng trên 26% giai đoạn trước năm 2020 xuống còn khoảng 21% trong giai đoạn này; (iii) Chất lượng NLTS xuất khẩu chưa đồng đều, chưa ổn định, trong khi yêu cầu của các nước nhập khẩu ngày càng cao, nhất là các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc, còn nhiều đơn hàng bị trả về, tỷ lệ sản phẩm sản xuất theo các tiêu chuẩn bền vững, chứng nhận quốc tế còn ít, chỉ đạt khoảng 10-15%; (iv) Tỷ lệ sản phẩm có thương hiệu còn ít dù có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu ở vị trí dẫn đầu thế giới, có đến hơn 80% chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác của Việt Nam. Điều này là hạn chế lớn, làm giảm sức cạnh tranh sản phẩm, đồng thời hạn chế sự tham gia sâu vào chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu, hệ thống phân phối bán lẻ của các nước nhập khẩu; (v) Ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, AI, … còn hạn chế; (vi) An toàn thực phẩm theo chuỗi giá trị còn hạn chế.

III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM THỜI GIAN TỚI

1. Bối cảnh tình hình

a) Cơ hội, thuận lợi

- Ngành nông nghiệp được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ, được tạo nhiều điều kiện để phát triển bền vững và tăng trưởng; cải cách mạnh mẽ của Chính phủ trong cắt giảm điều kiện đầu tư, kinh doanh và đơn giản hóa thủ tục hành chính; Đảng, Chính phủ có chính sách mạnh mẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân, nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng, độ mở lớn.

- Việc chuyển dịch và định hình lại chuỗi cung ứng toàn cầu tạo điều kiện cho các nền kinh tế mới nổi trong đó có Việt Nam. Việc nỗ lực đẩy mạnh sản xuất  nông nghiệp theo hướng bền vững, giảm phát thải carbon, truy xuất nguồn gốc, nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp số, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế giúp duy trì tín nhiệm của nhà nhập khẩu.

- Chính sách đối ngoại - thương mại thân thiện cùng với sự tích cực trong công tác đàm phán ký kết Nghị định thư mở cửa thị trường vừa qua là cơ hội để thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng có tiềm năng, đặc sản thế mạnh, chất lượng tốt của Việt Nam.

 Cơ hội mở rộng thị trường từ 17 Hiệp định thương mại tự do đã được ký kết và có hiệu lực thực thi từ những năm vừa qua, không chỉ từ những thị trường lớn, truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc mà còn mở rộng thêm các thị trường tiềm năng mới như Trung Đông, Châu Phi, Châu Âu, Asean.

- Nhu câu đối với sản phẩm có giá trị cao, chế biến sâu, sản phẩm hữu cơ, “xanh”, “bền vững” ngày càng được thị trường quốc tế ưu tiên; sản phẩm chủ lực như cà phê, gạo, thủy sản có thể phát triển thêm dòng cao cấp hoặc chế biến sâu, phát triển thương hiệu.

b) Thách thức, khó khăn

- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo áp lực cạnh tranh cả thị trường trong và ngoài nước. Việt Nam đã ký kết tham gia 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) là cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu, nhưng cũng gặp phải những thách thức lớn về cạnh tranh cả ở thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước. Nhiều mặt hàng có lợi thế cạnh tranh thấp như mía đường, quả có múi, sản phẩm chăn nuôi, nguyên liệu TACN…sẽ chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ sản phẩm nhập khẩu.

- Nhu cầu của các thị trường thay đổi và yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng ngày càng cao. Nhu cầu thị trường đang hướng đến các sản phẩm thân thiện môi trường, phát triển bền vững, trách nhiệm xã hội đòi hỏi các sản phẩm NLTS được khai thác hợp lý, từ đó đưa ra các tiêu chuẩn tương ứng về nguồn gốc sản phẩm (như thủy sản, rau quả, gỗ). Đây cũng là rào cản thách thức với xuất khẩu NLTS Việt Nam trong khi tổ chức sản xuất, yêu cầu truy xuất nguồn gốc, quản lý khai thác chứng nhận tiêu chuẩn, chất lượng chưa được thực hiện bài bản, nhiều doanh nghiệp nông nghiệp mới đang trong quá trình đổi mới để hội nhập với thế giới.

- Nhiều nước là thị trường xuất khẩu lớn, truyền thống của nông lâm thủy sản Việt Nam tăng cường bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ thị trường nội địa thông qua các chính sách thương mại mới: Hoa Kỳ: thay đổi chính sách thuế đối ứng đối với hàng hóa nhập khẩu. Trung Quốc: Quy định kỹ thuật, thủ tục xuất khẩu ngày càng chặt chẽ, yêu cầu chuẩn hóa sản phẩm (trái cây); các chính sách mới như áp thuế nhập khẩu 0% với 100% sản phẩm nhập khẩu từ các nước kém phát triển gây cạnh tranh ngày càng cao; mở rộng đầu tư, kinh doanh các dự án nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm sang nước ngoài, trong đó có Việt Nam. EU: Quy định mới về an toàn thực phẩm giảm mức dư lượng tối đa gây khó khăn cho xuất khẩu một số mặt hàng trái cây, cà phê, hồ tiêu và một số nông sản khác; quy định khắt khe về tiêu chuẩn ATTP. Xu thế tăng cường các biện pháp SPS, như: Asean (Indonesia), Trung Đông tăng cường cảnh báo về vấn đề an toàn thực phẩm; Australia, New Zealand sửa đổi Bộ luật tiêu chuẩn thực phẩm, sửa đổi tiêu chuẩn sức khỏe nhập khẩu sản phẩm phục vụ tiêu dùng cho con người; Hàn Quốc đưa ra thông báo thông số kỹ thuật đề xuất cho acrylamide trong thực phẩm…

- Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương để tăng cường ảnh hưởng về kinh tế, chính trị tại khu vực này, dẫn đến nguy cơ căng thẳng thương mại, an ninh, quân sự; nguylạm phát tăng khiến nhu cầu nông sản suy giảm ở các thị trường xuất khẩu lớn và truyền thống của Việt Nam. Giá cả, nhu cầu tiêu thụ một số nhóm hàng tăng cao dễ gây nguy cơ phát triển nóng, thiếu bền vững như sầu riêng vào Trung Quốc, cà phê vào EU, Hoa Kỳ… Đối với các thị trường tiềm năng: Bên cạnh phải cạnh tranh với nhiều quốc gia xuất khẩu truyền thống, như Thái Lan, Malaysia…, xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh mới, như Lào, Campuchia, Philippin ở các mặt hàng như rau quả, gạo...

- Bất ổn trong chính sách của các nhà nhập khẩu. Sự thay đổi chính sách nhập khẩu của các nước sẽ tác động rất lớn tới xuất khẩu nông sản. Trong những năm qua nhiều vụ kiện thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ với các mặt hàng tôm và cá tra của Việt Nam kéo dài và chưa có tín hiệu kết thúc, cùng với đó là chính sách thuế đối ứng thời gian gần đây. Đạo luật Farmbill của Hoa Kỳ (Luật Nông trại); việc thay đổi chính sách quản lý thương mại biên giới của Trung Quốc tăng cường áp dụng các biện pháp về truy xuất nguồn gốc NLTS, xiết chặt nhập tiểu ngạch, tạm nhập tái xuất; các biện pháp kiểm dịch thuỷ sản nhập khẩu của Hàn Quốc, tạm dừng nhập khẩu thuỷ sản của Ả rập Xê út, một số quy định nhập khẩu của Brazil hay các chính sách nhập khẩu thuỷ sản vào Nga... tạo ra các khó khăn cho việc xuất khẩu nông sản của Việt Nam.

- Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó lường. Ngành nông nghiệp luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ các tác động của thiên tai (biến đổi khí hậu dẫn đến các hình thái thời tiết cực đoan xảy ra bất thường, mưa đá, xâm nhập mặn mức độ nghiêm trọng hơn), dịch bệnh ảnh hưởng đến sản xuất và thương mại NLTS.

2. Dự báo xuất khẩu nông lâm thủy sản đến năm 2030

- Đến năm 2030, trên cơ sở tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả các mục tiêu Chiến lược phát triển ngành về chế biến sâu, phát triển thương hiệu, truy xuất nguồn gốc và đa dạng thị trường, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu NLTS và thực phẩm với chất lượng cao trong khu vực ASEAN và trên thế giới, có vị thế vững chắc trong chuỗi cung ứng NLTS và thực phẩm toàn cầu; các sản phẩm NLTS và thực phẩm của Việt Nam đáp ứng đầy đủ các quy định của các thị trường nhập khẩu.

- Căn cứ Quyết định 493/QĐ-TTg ngày 19/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của tất cả các lĩnh vực giai đoạn 2026 - 2030 là 5 - 6%. Trên cơ sở mức tăng kim ngạch xuất khẩu khoảng 5 - 6 tỷ USD/năm. Căn cứ mục tiêu tăng trưởng giá trị sản xuất toàn ngành giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 3,5-3,9%; mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu NLTS giai đoạn 2026 2030 là 6 - 8%/năm; trong trường hợp không xảy ra các biến động lớn về thị trường và tác động đột biến của yếu tố thời tiết, dịch bệnh tới sản xuất, dự báo kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đến năm 2030 ước đạt 95 - 100 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu lĩnh vực trồng trọt 47 - 50 tỷ USD, lĩnh vực chăn nuôi 3,5 - 5 tỷ USD, lĩnh vực thủy sản 14 - 17 tỷ USD, lĩnh vực lâm nghiệp 21 - 24 tỷ USD, các sản phẩm khác khoảng 5 - 8 tỷ USD.

3. Mục tiêu

a) Mục tiêu tổng quát: Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, trách nhiệm theo hướng “Nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”. Phát triển sản xuất NLTS hàng hóa tích hợp đa giá trị, dựa trên lợi thế địa phương, theo hướng hiện đại có năng suất, chất lượng, hiệu quả, bền vững và sức cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng. Nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống, vai trò và vị thế của người tham gia sản xuất nông nghiệp; tạo việc làm phi nông nghiệp để phát triển sinh kế đa dạng, giảm nghèo bền vững cho người dân nông thôn. Phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Phát huy tối đa hiệu quả của các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển KTXH, phát triển Ngành; sử dụng hợp lý và hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.

b) Mục tiêu xuất khẩu nông lâm thủy sản: Để đạt được mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP toàn Ngành 3,5%/năm trở lên trong giai đoạn 2026 - 2030, xuất khẩu nông lâm thủy sản nỗ lực tăng 6 - 8% trở lên từ nay cho tới năm 2030, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn Ngành đạt khoảng 95 - 100 tỷ USD.

4. Nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu

a) Về hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy tiêu thụ nông sản

- Hoàn thiện và cụ thể hóa các thể chế mang tính định hướng phát triển thị trường nông sản và hội nhập phù hợp với các Luật chuyên ngành; tập trung triển khai các cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ điểm nghẽn và xây dựng các chuỗi cung ứng nông sản bền vững. Đơn giản hóa thủ tục xuất khẩu, kiểm dịch, kiểm định tiêu chuẩn và môi trường; tránh cản trở, ách tắc quá trình thông quan tại các cửa khẩu.

- Thúc đẩy tài chính xanh, tín dụng xanh; đầu tư vào chuỗi giá trị nông sản sạch, an toàn. Mở rộng thực hiện chính sách bảo hiểm nông nghiệp, phòng ngừa rủi ro thiên tai, dịch bệnh.

b) Về sản xuất

- Tiếp tục tăng cường thông tin, định hướng, chỉ đạo địa phương để kịp thời điều chỉnh sản xuất trước những biến động của thị trường, tránh hiện tượng phát triển nóng, thiếu bền vững, đặc biệt là thận trọng trong vấn đề mở rộng diện tích. Trước mắt, rà soát sự phát triển sản xuất một số ngành hàng để đưa ra khuyến cáo kịp thời (không mở rộng diện tích cây sầu riêng ở khu vực bị xâm nhập mặn, không mở rộng diện tích cây cà phê Robusta ở khu vực không thuận lợi về nước tưới…).

- Kịp thời nắm bắt tình hình sản xuất nguyên liệu phục vụ chế biến, xuất khẩu; tháo gỡ các khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp, người nông dân trong tình huống sụt giảm đơn hàng xuất khẩu nhằm đảm bảo nguồn cung nguyên liệu bền vững.

- Tích cực hướng dẫn, tập huấn, tuyên truyền địa phương chú trọng phát triển theo hướng bảo đảm chất lượng nông sản, sản xuất theo tiêu chuẩn, quy định và nhu cầu của thị trường; chú trọng xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm thế mạnh, đặc sản của địa phương.

- Cải thiện quy trình nuôi trồng, chế biến; nghiên cứu, sáng tạo ra các giống mới, sản phẩm mới, đặc trưng, khác biệt và có lợi thế để nâng cao năng lực cạnh tranh với các nước trong khu vực và các nước có sản xuất sản phẩm tương đồng; Tiếp tục quan tâm phát triển nhóm sản phẩm Halal, sản phẩm hữu cơ, OCOP.

- Định hướng tiếp tục phát triển sản xuất theo hướng nâng cao chất lượng, giá trị, mẫu mã, công dụng, không chạy theo sản lượng của các nhóm sản phẩm đang có xu hướng nhu cầu cao trên thị trường.

c) Về quản lý chất lượng sản phẩm, chế biến và phát triển thị trường

Rà soát, hoàn thiện chính sách, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về quản lý chất lượng nông lâm thủy sản, hài hòa với quốc tế; phát triển hạ tầng logistics, chế biến sâu, giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh nông sản Việt Nam.  Xây dựng, phát triển nhãn hiệu, thương hiệu nông sản gắn với giá trị văn hóa, sản phẩm bản địa; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế.

Phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản, cơ giới hóa sản xuất, ứng dụng công nghệ cao; hình thành các cụm liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ gắn với vùng nguyên liệu. Đổi mới, đa dạng hóa hình thức tổ chức sản xuất; tăng cường liên kết chuỗi giá trị, thúc đẩy doanh nghiệp nông nghiệp, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Đẩy mạnh chiến lược mở cửa thị trường, tháo gỡ rào cản kỹ thuật, đồng thời phát triển các sản phẩm chủ lực, khuyến khích tiêu dùng nội địa theo Chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

d) Về thúc đẩy tiêu thụ

Một là, tăng cường các biện pháp mở cửa thị trường, thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường lớn, truyền thống:

+ Hoa Kỳ: (1) Tăng cường đàm phán mở cửa thị trường các mặt hàng có lợi thể cạnh tranh của Việt Nam như rau quả, thủy sản, đảm bảo tiếp cận thông tin kịp thời để xử lý tranh chấp thương mại; (2) Duy trì vị thế và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu; (3) Thay đổi lợi thế cạnh tranh từ cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng chất lượng, dinh dưỡng, bền vững. Tăng hàm lượng chế biến, ưu tiên sản phẩm ngách, đặc sản, đặc sắc, phục vụ xu hướng tiêu dùng mới như tiêu dùng xanh, tiêu dùng tại nhà, thực phẩm tiện lợi…; (4) Thay đổi hình thức XTTM theo hướng đẩy mạnh phối hợp với các Hiệp hội, các nhà phân phối lớn với chiến lược quảng bá trung và dài hạn có định hướng theo phân khúc thị trường ưu tiên, kênh phân phối ưu tiên theo từng giai đoạn; (5) Tăng cường hiểu biết về quy tắc của thị trường phân phối và tiêu dùng tại Hoa Kỳ, đồng thời nâng cao năng lực phòng bị thương mại.

+ Trung Quốc: (1) Bổ sung các sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu chính ngạch (thịt gia súc, thịt gia cầm); nghiên cứu cho phép nhập khẩu chính ngạch một số mặt hàng theo đề xuất của bạn để hạn chế nhập lậu và nâng cao chất lượng hàng hóa nhập khẩu; (2) Tận dụng chủ trương đẩy mạnh hợp tác của bạn để duy trì hợp tác song phương cấp cao nhằm tận dụng lợi thế về công nghệ, vốn của bạn giúp phát triển sản xuất trong nước; (3) Tăng cường giao lưu, kết nối giao thương doanh nghiệp hai nước, đặc biệt là khu vực biên giới, cửa khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng trái cây, thủy sản; (4) Tập trung xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt để người tiêu dùng Trung Quốc và trên thế giới nhận diện sản phẩm; (5) Tiếp tục xây dựng mã số vùng trồng vùng nuôi đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu giá trị cao (sầu riêng đông lạnh); (6) Nắm bắt thông tin kịp thời và thích ứng linh hoạt với những thay đổi chính sách, quy định của thị trường; thông tin và phổ biến thường xuyên, định kỳ tới doanh nghiệp, người sản xuất.

+ EU: (1) tăng cường các biện pháp kiểm tra, xử lý tháo gỡ một số mặt hàng đang trong danh mục tăng tần suất kiểm tra của EU (thanh long, đậu bắp, ớt, sầu riêng); (2) phát triển các vùng nguyên liệu đạt chuẩn xuất khẩu sang EU và chú trọng khuyến cáo nông dân, HTX áp dụng thuốc BVTV thuộc danh mục được phép sử dụng của EU và các quy định về an toàn sinh học…; (3) tăng cường và mở rộng sản xuất hữu cơ đạt tiêu xuất khẩu sang thị trường EU.

+ Nhật Bản: (1) Xuất khẩu nhóm mặt hàng thủy sản, thực phẩm chế biến (thịt gà chế biến qua nhiệt, trứng muối, mật ong), sản phẩm ngũ cốc, rau quả đông lạnh và tươi sống, cao su, gỗ và sản phẩm gỗ, cà phê, hạt điều, rau gia vị... là những sản phẩm có thế mạnh do thị trường có xu hướng chi tiêu nhiều hơn cho hoạt động ăn uống bên ngoài; (2) Tận dụng các thuận lợi từ Hiệp định CPTPP, VJFTA, RCEP; (3) Tiếp tục đàm phán mở cửa thị trường sản phẩm trái cây (nhãn, vú sữa, chanh leo).

Hai là, tận dụng tối đa cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm có lợi thế của Việt Nam sang các thị trường tiềm năng, mới nổi:

+ Hàn Quốc: (1)Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gỗ, thủy sản đang có đà tăng trưởng tốt những năm gần đây; Các loại trái cây đã được cấp phép nhập khẩu (thanh long, xoài, bưởi) mở ra cơ hội lớn cho ngành nông sản Việt Nam trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu sang Hàn Quốc; các mặt hàng chế biến khác đã được mở cửa như trứng muối, mật ong; (2) Tận dụng thuận lợi từ Hiệp định ASEAN-Hàn Quốc, RCEP; (3) Tiếp tục đàm phán mở cửa thị trường đối với thanh long ruột đỏ, vú sữa, nhãn, vải, chôm chôm, trứng, thịt gia súc, thịt gia cầm, tôm, cá bò khô tẩm gia vị.

+ Asean: (1) Thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng có nhu cầu lớn (thủy sản, rau quả, gạo, sắn, cà phê, chè, tiêu, điều, cao su, gỗ và sản phẩm gỗ) và các mặt hàng đã được mở cửa như các loại rau quả tươi, thủy sản các loại; thịt lợn đông lạnh và trứng gà giống vào Myanma; thịt lợn choai đông lạnh xuất sang Malaysia; trứng muối vào Singapore, Cambodia, Lào; Mật ong vào Malaysia, Indonesia, Philippin, Thailand; (2) Tiếp tục đàm phán mở cửa thị trường: Bưởi, xoài (Myanmar); chôm chôm, bưởi, chanh leo, na, vú sữa (Thái Lan); Thịt lợn, thịt gà chế biến (Philippin); (3) tăng cường quảng bá, xúc tiến thương  mại, tiếp cận thị trường đối với sản phẩm Halal vào các nước Malaysia, Indonesia.

+ Trung Đông: (1) Thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh và đang có sự tăng trưởng tốt vào UAE (hồ tiêu, gỗ và sản phẩm gỗ, hạt điều, gạo, thủy sản, rau quả); Thổ Nhĩ Kỳ (cao su, gỗ và sản phẩm gỗ, hạt tiêu, thủy sản); Arập Xê Út (hạt điều, thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ); (2) Phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương tăng cường các hoạt động ngoại giao kinh tế, trao đổi, đề nghị phía UAE tạo thuận lợi trong đánh giá chứng nhận và mở cửa thị trường cho một số sản phẩm chăn nuôi, thủy sản Việt Nam sản xuất theo tiêu chuẩn Halal xuất khẩu vào UAE.

Ba là, quan tâm thúc đẩy thị trường tiêu thụ trong nước: (1) Thúc đẩy tiêu dùng nông sản tại các thành phố lớn (tổ chức luân phiên, liên tục các hội chợ triển lãm, tuần hàng nhằm quảng bá, giới thiệu nông sản chủ lực, đặc sản của các địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã trực tiếp đến người tiêu dùng tại các thành phố lớn). Ưu tiên duy trì các sự kiện lớn của ngành trên 02 địa bàn Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; (2) Phối hợp với địa phương lựa chọn tổ chức luân phiên các Lễ hội ngành hàng; (3) Duy trì các diễn đàn kết nối tiêu thụ nông sản theo chuyên đề, ưu tiên các nhóm hàng đang có sự suy giảm xuất khẩu hoặc nhóm hàng có nguy cơ  suy giảm khi thị trường có biến động về chính sách; (4) Hỗ trợ các địa phương trong tuyên truyền, quảng bá, kết nối chuyển hướng tiêu thụ tại thị trường nội địa và các thị trường xuất khẩu tiềm năng khác.

Bốn là, đa dạng hóa chuỗi sản phẩm - giá trị gia tăng: (1) Khuyến khích xử lý sâu sản phẩm: chế biến cà phê, thủy sản đông lạnh, gỗ tinh chế và sản phẩm cao cấp; (2) Mở rộng thêm nhóm hàng tiềm năng như trái cây đặc sản, sản phẩm hữu cơ... để nâng cao độ đa dạng và giá trị xuất khẩu.

Tạo dựng và phát triển thị trường cho các hàng hóa, dịch vụ liên quan đến kinh tế xanh, như hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ, thiết bị, sản phẩm của ngành công nghiệp môi trường để thúc đẩy thực hiện kinh tế xanh.

Năm là, thực hiện đột phá trong ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số: Tổ chức thực hiện hiệu quả Kế hoạch hành động của Bộ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, giúp tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ số trong sản xuất, chế biến nông lâm thủy sản. Nâng cao trình độ chế biến, bảo quản nông sản và cơ giới hóa nông nghiệp, gắn với ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ cao, thông minh, tự động hóa trong sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường; chú trọng khâu chọn, tạo giống; phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, đẩy mạnh cơ giới hóa đồng bộ, tăng tỷ trọng chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Giảm chi phí sản xuất, chi phí trung gian và giảm mạnh tổn thất sau thu hoạch trong nông nghiệp. Phát triển hệ thống chế biến gắn với vùng nguyên liệu và nhu cầu của thị trường.

Chuyển giao, nhân rộng ứng dụng các biện pháp canh tác bền vững, các giải pháp khoa học công nghệ, rải vụ hiệu quả nhằm giảm chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y và các chi phí trung gian khác để nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao thu nhập cho người sản xuất. Đẩy mạnh ứng dụng viễn thám và trí tuệ nhân tạo để quan trắc, giám sát, quản lý vùng trồng, cơ sở nuôi, đánh giá sản lượng cây trồng chủ lực, kiểm kê rừng; theo dõi giám sát và phân tích dữ liệu thời tiết, đất đai, sâu bệnh, giúp nông dân tối ưu hóa sản xuất và giảm thiểu rủi ro

Rà soát, hệ thống hóa, đơn giản hóa các quy chuẩn, tiêu chuẩn để đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp và tiến dần hài hòa với các quy chuẩn quốc tế.

Sáu là, xây dựng, phát triển hệ thống Logistics phục vụ nông nghiệp, nông thôn hiện đại, đặc biệt quan tâm đến các mặt hàng cần tạm trữ trong thời điểm khó tiêu thụ, vào vụ thu hoạch rộ. Cùng với các giải pháp khoa học, công nghiệp chế biến để tối thiểu hóa chi phí trung gian nâng cao sức cạnh tranh nông sản, kết nối cung - cầu, thúc đẩy liên vùng, liên ngành; kết nối thị trường trong nước với ngoài nước; hợp tác liên kết sản xuất với chế biến và tiệu thụ theo chuỗi giá trị ngành hàng./.

                                                            TS. Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường
                                                                         TS. Trần Gia Long, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính

.