
Thực trạng nguồn nước
Yên Bái có 2 hệ thống sông chính là sông Thao và sông Chảy. Đây là nguồn cung cấp nước mặt lớn cho tỉnh với khối lượng nước hàng chục tỷ m3/năm, cung cấp nước tưới phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp và sinh hoạt. Bên cạnh đó, tỉnh còn có khoảng 24.700 ha ao hồ, đập chứa nước, chủ yếu tập trung ở các huyện: Yên Bình, Lục Yên, Trấn Yên. Các đầm lớn phân bố ở các xã Giới Phiên, phường Hợp Minh (thành phố Yên Bái), Minh Quân (huyện Trấn Yên), cung cấp với khối lượng tới hàng trăm triệu m3/năm. Trong đó, lớn nhất là hồ Thác Bà với diện tích mặt hồ 23.400 ha chiều dài 80 km chỗ rộng nhất 15 km, độ sâu lòng hồ khoảng từ 15 đến 34 m, tổng lượng nước trong hồ lên tới 2,9 tỷ m3. Ngoài ra, nguồn nước mặt của tỉnh còn được cung cấp từ lượng nước mưa hàng năm. Yên Bái thuộc vùng có lượng mưa trung bình, hàng năm có lượng mưa bình quân nhiều năm biến đổi từ 1.500 mm đến 2.200 mm, tùy theo từng vùng khác nhau. Những tâm mưa có lượng mưa lớn hơn 2.000 mm nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh, vùng thượng lưu sông Chảy và khu vực phía Đông Nam LVS Thao. Khu vực có lượng mưa nhỏ là vùng nằm khuất gió như vùng trung lưu ngòi Thia thuộc huyện Văn Chấn với lượng mưa hàng năm trung bình dưới 1.600 mm; khu vực dọc theo thung lũng dòng chính sông Thao từ ngòi Hút trở lên cũng có lượng mưa hàng năm dưới 1.600 mm. Tuy nhiên, lượng mưa phân bố theo mùa, tập trung chủ yếu vào mùa mưa (chiếm từ 80 - 85% tổng lượng mưa cả năm); đặc biệt, 3 tháng có cường độ mưa cũng như lượng mưa lớn nhất là các tháng 6, 7, 8, chiếm từ 45 - 55% lượng mưa cả năm. Những tháng mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, lượng mưa chỉ chiếm 15 - 20% lượng mưa cả năm. Các tháng 12, tháng 1 và tháng 2 là những tháng khô hạn nhất, thường xảy ra tình trạng thiếu nước vào các tháng này.
Tỉnh Yên Bái có đủ lượng nước mặt để cung cấp cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Nhưng do đặc điểm của địa hình, chế độ thời tiết và hậu quả của nạn phá rừng từ nhiều năm trước đã làm thay đổi lượng nước mặt giữa 2 mùa, mùa mưa và mùa khô. Mùa khô, mực nước ở các sông suối đều ở mức thấp nhất. Các công trình thủy lợi thiếu nước hoạt động, thủy điện Thác Bà hoạt động ở tình trạng bất lợi, vùng phía Tây thời tiết khô, dòng chảy của nhiều khe suối bị cạn kiệt gây ra tình trạng thiếu nước cho sản xuất và ảnh hưởng đến sinh hoạt của đồng bào. Trong mùa mưa, lưu lượng và mực nước các sông tăng nhanh, lũ quét xảy ra thường xuyên ở các suối lớn gây thiệt hại mùa màng, nhà cửa, tính mạng của người dân.
Chất lượng nước mặt: Nước các con sông, suối lớn và ao hồ của tỉnh Yên Bái nhìn chung tốt, ít bị ô nhiễm, đáp ứng yêu cầu cho sản xuất nông lâm nghiệp và sinh hoạt.
Đối với nguồn nước ngầm, nước khoáng: Yên Bái có nguồn nước ngầm đáng kể. Theo các tài liệu địa chất - thủy văn, nguồn nước ngầm và nước khoáng phân bố ở độ sâu 20 - 200 m dưới lòng đất. Nước khoáng nóng phân bố chủ yếu ở vùng phía Tây thuộc các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu và thị xã Nghĩa Lộ, nhiệt độ trên 400C, hàm lượng khoáng hoá 1-5 g/l, có khả năng chữa bệnh khi được xử lý độc tố. Tuy nhiên, nguồn nước ngầm phân bố không đồng đều trong các thành tạo địa chất khác nhau, mực nước ngầm thay đổi có nơi chỉ vài mét là có nước ngầm, có nơi thì mấy chục mét mới có. Hàng năm, có thể khai thác cấp nước sinh hoạt cho nhân dân hàng chục nghìn m3, chủ yếu là hệ thống giếng khơi và giếng khoan.
Nhìn chung, TNN của Yên Bái rất dồi dào, chất lượng nước tương đối tốt, ít bị ô nhiễm. Vì vậy, có giá trị rất lớn trong phát triển KT-XH và sinh hoạt, nếu được khai thác sử dụng hợp lý sẽ đáp ứng đủ nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, đời sống và nhiều lĩnh vực khác.
Thực hiện điều tra cơ bản tài nguyên nước
Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái đã ban hành kế hoạch thực hiện điều tra cơ bản TNN đối với các nguồn nước nội tỉnh Yên Bái đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Việc thực hiện điều tra cơ bản TNN đối với các nguồn nước nội tỉnh Yên Bái phù hợp với Quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản TNN quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Chiến lược quốc gia về TNN, kế hoạch phát triển KT-XH, QP-AN của tỉnh và đảm bảo tính khả thi, kế thừa kết quả điều tra cơ bản TNN đã thực hiện.
Các hoạt động điều tra cơ bản TNN phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với trung ương, lồng ghép tối đa với các lĩnh vực khác có liên quan. Kết quả hoạt động điều tra cơ bản TNN sẽ phục vụ đắc lực cho công tác quản lý TNN gắn với việc khai thác hiệu quả, bảo vệ và phát triển bền vững TNN, phòng, chống có hiệu quả tác hại do nước gây ra trong điều kiện BĐKH. Theo kế hoạch, đối với hoạt động điều tra cơ bản TNN định kỳ, thường xuyên sẽ tiến hành duy trì vận hành hệ thống trạm đo mưa, cảnh báo lũ hiện có trên địa bàn tỉnh; xây dựng bổ sung thêm để tăng mật độ các trạm đo mưa, đo mực nước, cảnh báo lũ, quan trắc TNN trên địa bàn tỉnh, ưu tiên các khu vực thượng nguồn LVS Thao, sông Chảy, Ngòi Thia, Ngòi Hút, suối Nậm Kim, khu vực thường xuyên xảy ra lũ ống, lũ quét. Đồng thời, xây dựng nội dung mạng lưới quan trắc TNN trên địa bàn tỉnh được thể hiện trong quy hoạch tỉnh; xây dựng, duy trì, nâng cấp hệ thống theo dõi, giám sát tự động trực tuyến các hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước làm căn cứ để đánh giá sự tuân thủ theo giấy phép TNN đã được cấp và cung cấp thông tin kịp thời phục vụ việc xử lý các vấn đề phát sinh, đồng bộ, tích hợp với hệ thống giám sát của trung ương; đảm bảo 80% hồ chứa lớn được kiểm soát, giám sát để duy trì dòng chảy tối thiểu của các LVS; 50% LVS Thao, sông Chảy có hệ thống quan trắc, giám sát tự động, trực tuyến. Xây dựng và duy trì hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu TNN của tỉnh tích hợp với hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu TNN quốc gia; phối hợp với Bộ TN&MT, các đơn vị có liên quan thực hiện kiểm kê TNN quốc gia giai đoạn đến năm 2025 và giai đoạn 2026-2030; lập báo cáo sử dụng nước của tỉnh hằng năm, giai đoạn 2021-2025, giai đoạn 2026-2030 theo quy định.
Đối với hoạt động điều tra cơ bản TNN không định kỳ sẽ phối hợp với các cơ quan trung ương thực hiện việc điều tra, tìm kiếm phát hiện nguồn NDĐ tỉnh Yên Bái gắn với phục vụ cấp nước sinh hoạt cho các thôn, xã đặc biệt khó khăn và khó khăn theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, vùng dân tộc thiểu số khan hiếm nước, thiếu nước sinh hoạt; thực hiện việc đánh giá, xác định, cập nhật định kỳ các đặc trưng cơ bản, lập bản đồ đặc trưng TNN mặt; đánh giá diễn biến TNN mặt theo từng giai đoạn trên các nguồn nước liên tỉnh chảy qua Yên Bái và các nguồn nước nội tỉnh. Cùng với đó, thực hiện việc điều tra, thống kê tổng lượng nước trữ được vào cuối mùa lũ đầu mùa cạn hằng năm của các hồ chứa có dung tích từ 3 triệu m3 trở lên; tổng hợp đánh giá diễn biến lượng nước trữ được của các hồ trên phạm vi từng LVS theo từng giai đoạn 5 năm, 10 năm; thực hiện việc điều tra, đánh giá, xác định và công bố dòng chảy tối thiểu trên các sông, suối nội tỉnh thuộc LVS Thao, sông Chảy; thực hiện việc điều tra, đánh giá, xác định khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của nguồn nước của một số sông, suối, hồ trên địa bàn tỉnh Yên Bái và lập bản đồ phân vùng tiếp nhận nước thải; thực hiện việc điều tra, khoanh định các khu vực hạn chế khai thác NDĐ, tổng hợp lập danh mục các vùng hạn chế khai thác NDĐ để công bố và thực hiện biện pháp khai thác NDĐ trên địa bàn tỉnh.
Đối với hoạt động điều tra cơ bản TNN có tính chất đặc thù sẽ tập trung điều tra hiện trạng khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải, chất thải khác vào nguồn nước; đánh giá tình hình ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước mặt, NDĐ; đánh giá, cảnh báo, dự báo tác động của BĐKH với TNN, diễn biến bất thường về số lượng, chất lượng các nguồn nước và các tác hại do nước gây ra.
Uỷ ban nhân dân tỉnh giao Sở TN&MT chủ trì phối hợp với các sở, ngành, địa phương tổ chức triển khai các nội dung nhiệm vụ của kế hoạch; lập các đề án, dự án theo nội dung nhiệm vụ nêu tại kế hoạch này. Đồng thời, chủ động lập dự toán cùng thời điểm xây dựng dự toán NSNN hằng năm đối với các đề án, dự án, nhiệm vụ điều tra cơ bản TNN, gửi Sở Tài chính, Sở KH&ĐT thẩm định, báo cáo UBND tỉnh xem xét, quyết định trên cơ sở khả năng cân đối của ngân sách địa phương. Đánh giá tiến độ, chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch định kỳ 5 năm một lần, báo cáo Bộ TN&MT, UBND tỉnh.
NGUYỄN HẢI LÝ
Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái