
Tiếp tục duy trì và giữ được vị thế của ngành Nông nghiệp và Môi trường để đóng góp vào tăng trưởng GDP 8% năm 2025
03/07/2025TN&MTĐó là nhấn mạnh của Thứ trưởng Bộ Nông Nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến tại buổi họp báo thường kỳ tháng 6 được Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức sáng ngày 3/7.
Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 6 ước đạt 5,93 tỷ USD
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 6 tháng đầu năm 2025, sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định. Sản lượng lúa Đông Xuân tăng so với năm trước; cây ăn quả chủ lực và cây công nghiệp lâu năm tăng cả diện tích và sản lượng so với cùng kỳ. Chăn nuôi lợn và gia cầm tiếp tục phục hồi, giá thịt gia súc, gia cầm duy trì ở mức cao giúp người nuôi có điều kiện để tái đầu tư, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đàn vật nuôi. Sản xuất lâm nghiệp tăng trưởng khá. Sản xuất thủy sản tiếp tục ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực, hoạt động nuôi trồng thủy sản có xu hướng mở rộng đối tượng nuôi sang các loài có giá trị kinh tế cao. Cụ thể:
Về kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản (NLTS) tháng 6/2025 ước đạt 5,93 tỷ USD, tăng 5,3% so với tháng 6/2024; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS 6 tháng đầu năm 2025 đạt 33,84 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 18,46 tỷ USD, tăng 17,8%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 264,4 triệu USD, tăng 10,1%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 8,82 tỷ USD, tăng 9,3%; giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất đạt 1,13 tỷ USD, tăng 23,6%; giá trị xuất khẩu muối đạt 5,7 triệu USD, tăng 2,4 lần.
Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các mặt hàng NLTS của Việt Nam với thị phần chiếm 42%. 2 thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23,5% và 15,6%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 3,2% và 1,2%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 sang khu vực châu Á tăng 2,3%; châu Mỹ tăng 18,7%; châu Âu tăng 46,3%; châu Phi tăng 99,5%; và châu Đại Dương tăng 2,7%.
Xét theo thị trường chi tiết, Hoa Kỳ với thị phần 21,1%, Trung Quốc với thị phần 17,6% và Nhật Bản với thị phần 7,2%, là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Hoa Kỳ tăng 16%, Trung Quốc giảm 0,7%, và Nhật Bản tăng 25,5%.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến phát biểu tại họp báo
Về trồng trọt, tính đến cuối tháng 6, cả nước đã gieo cấy được khoảng 5,2 triệu hecta (ha) lúa, tăng 0,03% so cùng kỳ năm trước; diện tích lúa đã thu hoạch ước đạt 3,33 triệu ha, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng ước trên diện tích thu hoạch đạt trên 22,7 triệu tấn, bằng 101,7% so với cùng kỳ.
Chăn nuôi lợn, gia cầm tương đối thuận lợi nhờ dịch bệnh được kiểm soát, giá bán sản phẩm duy trì ở mức có lợi cho người chăn nuôi. Ước tính đến cuối tháng 6/2025, đàn lợn của cả nước tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, đàn gia cầm tăng 4%, trong khi tổng số trâu giảm 3,4%, đàn bò giảm 0,6%.
Đối với lâm nghiệp, ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung 6 tháng 153,5 nghìn ha, tăng 18,9% so với cùng kỳ; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 6 tháng đầu năm ước đạt 48,6 triệu cây, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2024; sản lượng gỗ khai thác 6 tháng đạt 11,2 triệu m3, tăng 9%.
Bên cạnh đó, 6 tháng đầu năm 2025, sản lượng thủy sản ước đạt 4.550,9 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Cá đạt 3.281,8 nghìn tấn, tăng 2,9%; tôm đạt 605,5 nghìn tấn, tăng 5,6%.
Về nhập khẩu nông lâm thủy sản và vật tư đầu vào, kim ngạch nhập khẩu NLTS tháng 6/2025 ước đạt 4,21 tỷ USD, tăng 11,5% so với tháng 4/2024; đưa tổng kim ngạch nhập khẩu NLTS 6 tháng đầu năm 2025 đạt 24,01 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản đạt 14,86 tỷ USD, tăng 16,4%; giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 2,11 tỷ USD, tăng 21,5%; giá trị nhập khẩu thủy sản đạt 1,61 tỷ USD, tăng 33,4%; giá trị nhập khẩu lâm sản đạt 1,54 tỷ USD, tăng 19,4%; giá trị nhập khẩu đầu vào sản xuất đạt 3,87 tỷ USD, tăng 1%; giá trị nhập khẩu muối đạt 15,9 triệu USD, giảm 9,6%.
Xét theo vùng lãnh thổ, Việt Nam nhập khẩu các mặt hàng NLTS nhiều nhất từ các thị trường thuộc khu vực châu Á và châu Mỹ với thị phần lần lượt là 31,4% và 24,7%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu NLTS của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 từ khu vực châu Á tăng 21,8%; châu Mỹ tăng 11,3%; châu Âu tăng 8,6%; châu Đại Dương giảm 0,6%; và châu Phi tăng 2,8%.
Xét theo thị trường chi tiết, Trung Quốc và Hoa Kỳ là 2 thị trường cung cấp các mặt hàng NLTS lớn nhất cho Việt Nam với thị phần cùng chiếm 8,9%. Thị trường lớn thứ 3 là Campuchia có thị phần chiếm 8,6%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu NLTS của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Trung Quốc tăng 9,1%, Hoa Kỳ tăng 19%, và Campuchia tăng 48%.
Phát triển ngành Nông nghiệp theo chuỗi giá trị kinh tế
Trước bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới và trong nước năm 2025, cùng với dự báo những thách thức và cơ hội đan xen trong giai đoạn tới, chủ trương “Phát triển ngành nông nghiệp theo chuỗi giá trị kinh tế nông nghiệp từ khâu sản xuất đến công đoạn chế biến tạo giá trị gia tăng, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và phát triển thị trường, giải quyết đầu ra cho sản phẩm nông lâm thủy sản tại thị trường trong nước và xuất khẩu” tiếp tục là định hướng xuyên suốt trong việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển ngành Nông nghiệp Việt Nam giai đoạn mới. Để tiếp tục thúc đẩy gia tăng giá trị, chất lượng và thị phần xuất khẩu các sản phẩm nông lâm thủy sản, Bộ NN&MT tập trung triển khai thực hiện các giải pháp:
Thứ nhất, hoàn thiện và cụ thể hóa các thể chế mang tính định hướng phát triển thị trường nông sản và hội nhập phù hợp với các Luật chuyên ngành được sửa đổi, ban hành; tập trung triển khai các cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ điểm nghẽn và xây dựng các chuỗi cung ứng nông sản bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị, sức cạnh tranh và uy tín của nông sản Việt Nam tại thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục triển khai thực hiện các Chiến lược phát triển từng ngành hàng trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp nhằm duy trì sản xuất, đảm bảo nguồn cung phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; chủ động xây dựng, triển khai, điều chỉnh kế hoạch sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng phó phù hợp, kịp thời với diễn biến thị trường nhằm hạn chế mất cân đối cung cầu và biến động giá cả.
Thứ ba, quản lý chặt chẽ chất lượng trong sản xuất, chế biến và chứng nhận sản phẩm đảm bảo các tiêu chuẩn, quy định của thị trường, truy xuất được nguồn gốc sản phẩm, làm cơ sở để phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam.
Thứ tư, thúc đẩy tiêu thụ nông sản tại thị trường trong nước và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản, đóng góp vào sự phát triển của ngành và đất nước trong giai đoạn mới; nghiên cứu triển khai các nhiệm vụ nhằm khai thác tốt hơn thị trường Trung Quốc, bảo đảm ổn định đầu ra cho nông sản; tăng cường các hoạt động phát triển thị trường, kết nối, quảng bá nông sản tại các thị trường lớn nhưng thị phần còn chưa tương xứng như EU, Nhật Bản; tiếp tục đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu các nhóm sản phẩm chủ lực như trái cây và nhóm sản phẩm tiềm năng còn nhiều dư địa gia tăng xuất khẩu như sản phẩm chăn nuôi.
Phương Chi