Triển khai đồng bộ các giải pháp chuyển đổi xanh hướng tới phát thải ròng bằng “0”

06/02/2025

TN&MTViệt Nam đang đứng trước một thách thức lớn trong việc thực hiện cam kết đạt mục tiêu Phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Việc đạt được mục tiêu này đòi hỏi một quá trình chuyển đổi xanh sâu rộng, không chỉ trong các ngành công nghiệp mà còn ở cả chính sách và nhận thức cộng đồng. Những giải pháp này không chỉ giúp giảm phát thải mà còn mở ra cơ hội phát triển bền vững trong tương lai.

Triển khai đồng bộ các giải pháp chuyển đổi xanh hướng tới phát thải ròng bằng “0”

Cơ hội và thách thức trong thực hiện Phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam

Đối với các quốc gia trên toàn thế giới, mục tiêu Phát thải dòng bằng “0” - trạng thái phát thải ròng bằng không - đang trở thành tiêu chí phát triển bền vững quan trọng. Với cam kết đạt Phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, nước ta bước vào một cuộc đua xanh với mục đích giảm thiểu khí nhà kính và tác động của biến đổi khí hậu. Tuy vậy, hành trình này không dễ dàng do Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc phần lớn vào các nguồn năng lượng hóa thạch như than đá và dầu mỏ. Để giảm phát thải, việc chuyển đổi các ngành công nghiệp chủ chốt như năng lượng, giao thông và nông nghiệp là hết sức cần thiết. Nhìn vào báo cáo của Bộ TN&MT cho thấy, Việt Nam phải giảm lượng phát thải ít nhất 43,5% vào năm 2030 so với kịch bản phát thải thông thường mới có thể đạt được mục tiêu Phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Trên con đường đạt Phát thải ròng bằng “0”, Việt Nam hiện đối mặt với nhiều thách thức, trong đó bao gồm sự phụ thuộc vào than đá trong ngành năng lượng, thiếu vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến để phát triển năng lượng tái tạo, cũng như chưa có các chính sách rõ ràng khuyến khích chuyển đổi xanh.

Theo Kịch bản phát triển thông thường, tổng phát thải của Việt Nam đến năm 2030 dự kiến là 932 triệu tấn, trong đó ngành năng lượng chiếm 680 triệu tấn, vì vậy, để đạt được mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0” là thách thức rất lớn. Hơn nữa, lộ trình cắt giảm phát thải khí nhà kính được đưa ra tại Hội nghị COP26 đòi hỏi tất cả các quốc gia phải chuyển đổi mạnh mẽ sang phát triển phát thải thấp và để thực hiện được mục tiêu này, chuyển đổi năng lượng, hướng đến chấm dứt sử dụng than là vấn đề mà Việt Nam cần phải nỗ lực rất lớn, trong đó năng lượng là lĩnh vực phải được ưu tiên quan tâm hàng đầu, bởi đây là lĩnh vực phát thải lớn nhất. Theo tính toán của Bộ TN&MT, trong lĩnh vực năng lượng, 60% lượng phát thải từ công nghiệp năng lượng - chủ yếu từ sản xuất điện năng, còn theo Kịch bản phát thải trong điều kiện phát triển thông thường (BAU) của Việt Nam, dự kiến đến năm 2050, 81% lượng phát thải đến từ ngành năng lượng, như vậy năng lượng sẽ là ngành quyết định mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam.

Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC) cho rằng, để đạt mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0”, cần dừng triển khai các dự án than mới, cũng như đưa ra lộ trình tiến tới loại bỏ các dự án than hiện tại. Với xu hướng toàn cầu chuyển dịch khỏi nhiên liệu hóa thạch, kỷ nguyên than đang khép lại và các dự án than mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động tài chính. Hiện nay, công suất điện than của nước ta đạt khoảng 21,3GW, đóng góp 50% tổng sản lượng điện, con số này còn được tăng lên 40,9GW vào năm 2030 và lên tới 50,9GW vào năm 2035 (Theo Quy hoạch điện VIII). Đặc biệt, với 15,8GW công suất nguồn điện ước tính chưa thu xếp được tài chính ở Quy hoạch điện VIII sẽ là thách thức không nhỏ khi Việt Nam đưa ra mục tiêu Net-Zero vào năm 2050 do đã có hơn 100 tổ chức tài chính thông báo rút khỏi các dự án khai thác than và nhà máy điện than để thực hiện mục tiêu giảm phát thải các-bon.

Thực tế, trên con đường thực hiện mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0”, Việt Nam đang gặp hai thách thức lớn: Thứ nhất, về nguồn vốn, theo World Bank, đến năm 2040, Việt Nam sẽ cần 368 tỷ USD để đạt Phát thải dòng bằng “0”, nhưng số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, dư nợ tín dụng xanh của Việt Nam tính đến ngày 30/6/2023 chỉ đạt gần 528,3 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Mặt khác, nguồn vốn tài chính quốc tế cho phát triển xanh cũng không còn rẻ, trong khi lãi suất của Cục Dự trữ liên bang (Ngân hàng Trung ương Mỹ - FED) và các nước châu Âu đang ở mức rất cao. Do đó, việc tìm nguồn vốn cho phát triển xanh ở Việt Nam là thách thức không nhỏ, bởi nguồn vốn từ định chế tài chính quốc tế vẫn quan trọng trong lâu dài để tiến đến trái phiếu xanh, tín dụng xanh. Thứ hai, năng lực đổi mới với phát triển xanh, trong đó bao gồm hạ tầng và điều kiện sản xuất; đào tạo đội ngũ nhân lực, người lao động; các chuẩn mực quản trị điều hành, chuẩn mực công bố thông tin. Điều này dẫn đến việc không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng tham gia vào quá trình chuyển đổi, đặc biệt là về nguồn vốn đầu tư và hoạt động vận hành.

Bên cạnh đó, hành lang pháp lý chưa đủ mạnh mẽ để tạo ra một môi trường hỗ trợ doanh nghệp hướng tới năng lượng bền vững. Theo đó, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống chính sách minh bạch hơn nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tham gia vào việc giảm phát thải và đầu tư vào năng lượng tái tạo. Cùng với đó, ý thức và hành vi tiêu dùng của người dân cũng là một thách thức không nhỏ. Khi cộng đồng có nhận thức sâu sắc về việc bảo vệ môi trường và tiêu dùng bền vững thì các nỗ lực chuyển đổi xanh mới thực sự bền vững.

Triển khai đồng bộ các giải pháp trọng tâm hướng tới giảm phát thải ròng bằng “0” 

Theo các chuyên gia, một trong những giải pháp hàng đầu là cần hoàn thiện các chính sách pháp lý liên quan đến giảm phát thải và năng lượng bền vững. Việc áp dụng các quy định chặt chẽ hơn về phát thải cùng với chính sách ưu đãi thuế và tài chính cho doanh nghiệp tham gia chuyển đổi xanh sẽ giúp tạo động lực. Cụ thể, chính sách pháp lý không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp mà còn thúc đẩy đầu tư vào năng lượng tái tạo. Ngoài ra, thêm một giải pháp quan trọng đó là phát triển thị trường tín chỉ carbon. Thị trường này không chỉ khuyến khích doanh nghiệp giảm phát thải mà còn giúp họ có cơ hội tham gia vào các giao dịch mua bán tín chỉ, từ đó tạo động lực kinh tế cho việc chuyển đổi xanh. Đây là một công cụ kinh tế mạnh mẽ, giúp các doanh nghiệp giảm phát thải một cách hiệu quả và có động lực tài chính để tham gia vào quá trình chuyển đổi xanh.

Thúc đẩy nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cũng là một yếu tố quan trọng. Theo đó, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi, Việt Nam cần thúc đẩy hợp tác quốc tế để có thể tiếp cận công nghệ tiên tiến và phù hợp với điều kiện địa phương. Khi đó, các doanh nghiệp vừa có thể giảm phát thải, vừa duy trì năng lực cạnh tranh. Thêm vào đó, việc xây dựng hệ sinh thái bền vững cho các ngành công nghiệp như sản xuất, xây dựng và vận tải cũng rất cần thiết, trong đó các doanh nghiệp có thể áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn và quản lý tài nguyên hiệu quả, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 

Việc thực hiện chuyển đổi xanh cũng cần được xây dựng dựa trên cả chiến lược ngắn hạn và dài hạn. Trước mắt, Việt Nam có thể tập trung vào các biện pháp như tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng về biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Sự tham gia tích cực của cộng đồng trong việc thay đổi hành vi tiêu dùng, sử dụng năng lượng hiệu quả và giảm phát thải là điều kiện tiên quyết để các giải pháp chuyển đổi xanh có thể thành công. 

Đặc biệt, cần khuyến khích hành vi tiêu dùng bền vững, từ việc giảm thiểu sử dụng sản phẩm nhựa, thực phẩm chế biến sẵn đến việc ủng hộ các sản phẩm thân thiện với môi trường và có chứng nhận xanh. Người tiêu dùng cần được hướng dẫn để nhận diện những sản phẩm có lợi cho môi trường và biết cách thay đổi thói quen mua sắm để giảm thiểu tác động tiêu cực tới hệ sinh thái.

Ngoài ra, cần tăng cường các chính sách hỗ trợ tiêu dùng xanh như hỗ trợ tài chính cho các hộ gia đình sử dụng năng lượng tái tạo, cấp chứng nhận xanh cho các sản phẩm thân thiện với môi trường, hoặc giảm thuế đối với những sản phẩm có lợi cho môi trường. Đồng thời, người dân cũng cần được khuyến khích tham gia vào các chương trình tái chế và giảm thiểu chất thải.

Từ cam kết giảm phát thải ròng bằng “0” đến những hành động cụ thể, thiết thực là một hành trình dài đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, đòi hỏi cần phải có nhận thức rõ về chuyển đổi xanh, phát triển và thực hiện các mô hình sản xuất, kinh doanh phát thải thấp. Song đây đồng thời sẽ là thời điểm, cơ hội để Việt Nam nâng cao vị thế trên trường quốc tế, khẳng định quyết tâm cùng hành động nhằm thực hiện các mục tiêu toàn cầu; là cơ hội để nước ta cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa vào tri thức, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

NGỌC ÁNH
Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 23 (Kỳ 1 tháng 12) năm 2024

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Cơ hội tái cấu trúc của Trường Cán bộ quản lý NN-PTNT

Việt Nam - Australia hợp tác chiến lược về nông nghiệp và môi trường

Nghiên cứu công nghệ mũi nhọn, phát triển nông nghiệp thông minh

Việt Nam - Australia hợp tác phát triển nông nghiệp xanh, giảm nhẹ rủi ro thiên tai

Nông nghiệp

Quảng Bình hoàn thành 1.450 căn nhà đợt 1 cho hộ nghèo, hộ cận nghèo - Vượt tiến độ đề ra

Giò chả Ước Lễ Xuân Hương, sản phẩm OCOP 4 sao - tinh hoa hương vị Việt giữ trọn hồn dân tộc

Đắk Lắk: Nông dân được mùa “vải thiều” nhờ liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và ứng dụng khoa học kỹ thuật

Định hình cơ quan Nông nghiệp và Môi trường cấp xã trong giai đoạn mới

Tài nguyên

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Nam Định: Quản lý hiệu quả tài nguyên khoáng sản

Quảng Bình - Quảng Trị: Cơ hội vàng cho kinh tế biển bứt phá

Khai thác đúng sản lượng cấp phép, bảo đảm hiệu quả, tránh lãng phí tài nguyên

Môi trường

Giữ vững màu xanh cho rừng Vân Hồ: Hiệu quả từ sự vào cuộc đồng bộ

Hà Tĩnh: Tích cực nâng cao công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng

Cộng đồng xanh Hà Nội: Khi những người trẻ chọn sống tử tế với môi trường

Ngô Quyền (Hà Đông): Đường thành bãi lầy sau mưa, dân khốn khổ vì bụi bẩn và ô nhiễm

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Lâm Đồng: Hội thảo hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cu Ba

Ứng dụng AI - Nâng chuẩn an toàn thực phẩm, phát triển doanh nghiệp xanh

Nghiên cứu xác định khu vực thuận lợi cho trồng di thực cây sâm Ngọc Linh tại tỉnh Quảng Ninh dựa trên đánh giá tài nguyên khí hậu và đất

Thiên Phúc - Đưa khoa học vào từng sợi nấm

Chính sách

Tập trung ứng phó với mưa lớn ở miền núi trung du Bắc Bộ

Thủ tướng chỉ đạo tăng cường phòng, chống thiên tai trước mùa mưa bão năm 2025

Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) với chiến lược giám sát kháng thuốc: Định hình hành động liên ngành

3 huyện, thị xã về đích nông thôn mới

Phát triển

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường - IWEDI: Kết nối trí tuệ nữ doanh nhân với truyền thông nông nghiệp xanh

Định hướng ngành Nông nghiệp và Chăn nuôi phát triển theo tiêu chuẩn toàn cầu

10 sáng kiến tiêu biểu chống ô nhiễm nhựa

Thúc đẩy chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp và môi trường

Diễn đàn

Hành trình đến Net Zero: Hỗ trợ kỹ thuật và tiếp cận nguồn vốn xanh

Thời tiết ngày 27/6: Vùng núi, trung du Bắc Bộ mưa rất to

Số hóa và truy xuất nguồn gốc để nâng giá trị nông sản Việt

Tiêu dùng xanh trong đô thị: Thay đổi thói quen hướng tới phát triển bền vững