
Phóng viên: Xin chúc mừng ông về những thành tựu của Liên đoàn trong chặng đường đã đi qua. Là một cán bộ mẫn cán và có nhiều tâm huyết với nguồn tài nguyên này, xin ông giới thiệu đôi nét về giá trị của đất hiếm?
Ông Trịnh Đình Huấn: Là một loại khoáng sản đặc biệt, có vai trò quan trọng và là vật liệu chiến lược đối với sự phát triển của các ngành kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao như: Điện, điện tử, quang học, laser, vật liệu siêu dẫn, chất phát quang. Được biết, đất hiếm được dùng để sản xuất các chất xúc tác, nam châm, hợp kim, bột mài, gốm, chất phát quang. Việc chế tạo điện thoại di động, ổ đĩa cứng máy tính,... không thể không dùng đến đất hiếm. Nhiều nước coi đất hiếm là vàng của Thế kỷ XXI, thậm chí của cả Thế kỷ XXII. Các nhà khoa học trên thế giới còn gọi đất hiếm là những nguyên tố của tương lai.
Đất hiếm gồm 17 nguyên tố, phần lớn trong số đó đóng vai trò không thể thay thế trong sản xuất thiết bị công nghệ cao, pin, nam châm vĩnh cửu phục vụ cho xe điện, tuabin điện gió, máy bay, điện thoại và công nghiệp quốc phòng. Theo công bố năm 2022 của Cục Khảo sát địa chất Mỹ, Trung Quốc có trữ lượng đất hiếm lớn nhất, 44 triệu tấn; kế đến là Việt Nam 22 triệu tấn và Brazil 21 triệu tấn. Các nước như Nga, Mông Cổ, Ấn Độ cũng có đất hiếm nhưng trữ lượng ít hơn.
Trong suốt ba thập kỷ, Trung Quốc khai thác và xuất khẩu đất hiếm lớn nhất thế giới, chiếm đến 80% tổng sản lượng toàn cầu. Năm 2010, khi nước này siết chặt khai thác, xuất khẩu, đất hiếm bắt đầu được săn lùng trên toàn thế giới. Các quốc gia đi đầu trong phát triển công nghệ tìm đến Việt Nam với hy vọng có được nguồn đất hiếm thay thế.
Phóng viên: Vậy hành trình của những người đi tìm đất hiếm của Liên đoàn được bắt đầu như thế nào thưa ông?
Ông Trịnh Đình Huấn: Từ những năm 1960 của thế kỷ trước đã có các nhà địa chất của Việt Nam và Liên Xô (cũ) tìm kiếm đất hiếm và đã phát hiện ra nhiều mỏ như: Đông Pao, Nam Nậm Xe, Bắc Nậm Xe, Yên Phú… Năm 2010, Tổng công ty Dầu khí và Kim loại quốc gia Nhật Bản (JOGMEC) cùng Bộ TN&MT Việt Nam bắt đầu khảo sát, tìm kiếm đất hiếm dạng hấp phụ ion ở vùng Tây Bắc. Nhiệm vụ được giao cho Cục Địa chất và Khoáng sản (cũ) và đơn vị trực tiếp triển khai là Liên đoàn Địa chất Xạ - Hiếm.
Khi ấy tôi còn là cán bộ kỹ thuật, tôi được biết, Nhật Bản chọn Việt Nam vì hai lý do chính: (1) từ những năm 1960, chuyên gia Liên Xô đã có báo cáo ban đầu về phát hiện đất hiếm ở miền núi Tây Bắc. (2) khu vực này có địa chất, khí hậu, địa hình thuận lợi có thể hình thành các mỏ ở trong vỏ phong hoá; đặc biệt là đất hiếm dạng hấp phụ ion đang được các nước trên thế giới quan tâm.
Do vậy, vấn đề đặt ra đối với cuộc tìm kiếm là phải xác định vị trí tồn tại đất hiếm dạng hấp phụ ion (do đang là xu thế của thế giới) với đặc điểm thuận lợi cho khai thác và ít ảnh hưởng đến môi trường. Khi nhận nhiệm vụ này, anh em kỹ thuật ở Liên đoàn rất lo lắng vì thông tin và kiến thức đất hiếm hấp phụ ion gần như bằng “0”, hầu hết chỉ có trong các tài liệu của nước ngoài nhưng công bố rất ít. Tuy nhiên, kết quả cũng đã xác định được khu vực Bến Đền có dạng đất hiếm hấp phụ ion.
Phóng viên: Tìm được vị trí khu vực có đất hiếm hấp phụ ion, bài toán tiếp theo là làm sao xác định được tài nguyên thưa ông?
Ông Trịnh Đình Huấn: Để xác định được tài nguyên, Liên đoàn cùng các chuyên gia Nhật Bản sau nhiều lần họp bàn thống nhất đưa ra phương án triển khai nhiệm vụ này.
Để đánh giá đầy đủ, Liên đoàn và chuyên gia Nhật Bản đã khảo sát trên diện tích 26 km2. Lúc đó tôi trực tiếp là chủ nhiệm đề án, Đề án được chia làm nhiều tổ. Một là tổ kỹ thuật gồm khoảng 20 người, thuê nhà dân để ở có nhiệm vụ định hướng các công việc cho toàn bộ đề án cũng như tổng hợp, xử lý tài liệu phục vụ khi kết thúc đề án.
Tổ còn lại khoảng 60 người, có nhiệm vụ thi công công trình (hào, khoan). Do điểm khoan cách xa nhà dân, máy móc cồng kềnh nên đội phải dựng lán ăn ở trong rừng. Kết thúc mỗi ngày, một người trong đội khoan làm nhật ký mang nộp cùng mẫu đất cho đội kỹ thuật và nhận chỉ đạo cho công việc của ngày tiếp theo.
Đề án tiến hành thi công 108 lỗ khoan với chiều sâu từ 7-50 m. Do mỗi lỗ khoan thi công trung bình mất khoảng 2 - 5 ngày nên để có thể hoàn thành công việc trong thời gian sớm nhất, gần như toàn bộ lực lượng tập trung cho việc thi công khoan.
Phóng viên: Ngoài việc chuyên môn và trách nhiệm thì điều gì là khó khăn khiến ông nhớ nhất?
Ông Trịnh Đình Huấn: Nhiều kỷ niệm lắm, với cán bộ địa chất, làm việc giữa rừng thiếu thốn, đối diện sốt rét rừng không phải là vấn đề lớn. Khó khăn nhất là di chuyển các thiết bị khoan nặng trong địa hình đồi núi, không có đường đi. Nhiều vị trí khoan cách nhau đến 2 km, nên việc vận chuyển gặp rất nhiều khó khăn; chúng tôi phải thuê lao động tại địa phương, khi kéo máy khoan lên dốc cao, anh em phải nhờ dân mang trâu ra kéo mới lên được vị trí thi công.
Hơn bốn tháng làm việc trong rừng, kỷ niệm nhớ nhất là thi công ở khu vực vườn của đồng bào. Mặc dù đã cùng với chính quyền thuyết phục và người dân đồng ý, giữa lúc thi công khoan thì hộ dân này bất ngờ không cho thi công, ném một số thiết bị xuống ao. Giữa thời tiết lạnh, anh em phải xuống vớt lên để có thiết bị thi công.
Kết thúc quá trình thi công khoan đã lấy được khoảng 1.400 mẫu đất được thu về, chuyển sang nước ngoài phân tích. Tài nguyên, chất lượng đất hiếm dạng hấp phụ ion phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả phân tích từ đối tác quốc tế. Hai tháng chờ đợi kết quả, Liên đoàn chúng tôi hồi hộp, nhiều cán bộ lo lắng đến mất ăn, mất ngủ. Tới khi được phía Nhật thông báo Bến Đền có chất lượng tốt, vượt xa dự đoán ban đầu, khi ấy Liên đoàn chúng tôi vỡ òa sung sướng.
Phóng viên: Kết quả lúc đó ra sao thưa ông?
Ông Trịnh Đình Huấn: Kết quả khảo sát đã khoanh định được ba diện tích có triển vọng đất hiếm hấp phụ ion với diện tích khoảng 9 km2 có chiều dày vỏ phong hóa (lớp đất hiếm) từ 1,4 ÷ 24,3 m, trung bình 13,1 m.
Tôi rất vui mừng, báo cáo ngay cho anh em trong đề án, Lãnh đạo Liên đoàn và lãnh đạo Cục Địa chất và Khoáng sản (cũ). Ai cũng tràn đầy hy vọng các mỏ đất hiếm này sẽ được khai thác để phục vụ quá trình phát triển của đất nước nói chung và địa phương nơi có mỏ nói riêng.
Từ đó đến nay, Liên đoàn đã phát hiện nhiều khu vực có triển vọng về đất hiếm hấp phụ ion như: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An, Kon Tum… Từ các kết quả đó cho thấy Việt Nam là quốc gia có tiềm năng tài nguyên, trữ lượng đất hiếm lớn.
Phóng viên: Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Liên đoàn, ông có chia sẻ và mong muốn gì để Liên đoàn nói chung và nguồn tài nguyên này được phát huy tối đa giá trị?
Ông Trịnh Đình Huấn: Về khai thác tài nguyên, theo tôi không chỉ tìm kiếm, thăm dò, khai thác mà phải đặc biệt quan tâm đến hậu khai thác, đó là chế biến. Phải làm sao phát huy được công nghệ chế biến sâu để có sản phẩm tinh quặng đạt giá trị thương phẩm cao, chú ý đến các kim loại đất hiếm nhóm trung và nhóm nặng có giá trị mà nhu cầu thế giới đang cần.
Ước mơ về một ngành nghề chế biến đất hiếm đặc thù dường như đang mở ra trong tôi ý tưởng về những khu công nghiệp khai thác, chế biến công nghệ cao và đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường. Hiện tại, tôi mong muốn Nhà nước tiếp tục đầu tư công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản đất hiếm trên toàn lãnh thổ Việt Nam (trong đó trọng tâm là đất hiếm hấp phụ ion) nhằm xác định tổng thể tài nguyên quặng đất hiếm để có quy hoạch và định hướng phát triển kinh tế địa phương, góp phần phát triển kinh tế đất nước theo hướng bền vững trong tương lai.
Đối với công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, việc tìm kiếm phát hiện điểm, mỏ khoáng sản là niềm vui không chỉ riêng của tôi mà là công sức của tập thể đơn vị góp phần vào thành tích chung của ngành. Những chuyến đi tìm kiếm đó đều để lại trong chúng tôi rất nhiều ấn tượng sâu sắc. Đặc thù công việc của người địa chất thường xuyên sống xa gia đình, làm việc ở các vùng núi cao, do vậy anh em địa chất chúng tôi càng phải nỗ lực phấn đấu và làm việc nhiều hơn để hoàn thành nhiệm vụ.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!
Hồng Minh (thực hiện)
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11+12 năm 2023