
Ảnh minh họa.
Việt Nam nằm trong nhóm nước sản xuất khoáng sản triển vọng
Trong nhóm 10 nước ASEAN, Myanmar và Việt Nam được coi là 2 quốc gia sản xuất khoáng sản triển vọng trên thế giới. Trong khi Myanmar là nước có tài nguyên đá quý lớn trên thế giới và nhà sản xuất thiếc lớn thứ hai, Việt Nam là nhà sản xuất vonfram-bismuth lớn trên thế giới và được đánh giá là có triển vọng về đồng. Về trữ lượng, Việt Nam được đánh giá là có trữ lượng tầm thế giới gồm: bauxit, vonfram - bitsmut, đồng, graphit, niken, đất hiếm, cát silica, titan - zircon, vonfram, kẽm, đá hoa trắng, và nguyên liệu sản xuất xi măng, ốp lát. Đối với bauxit được đánh giá lớn thàng đầu thế giới, mặc dù là một nhà sản xuất tương đối nhỏ. Việt Nam cũng được đánh giá là nước có trữ lượng đất hiếm lớn nhất thế giới, mặc dù, sản lượng hiện nay mức độ thăm dò, khai thác chế biến còn hạn chế. Khai thác và khai thác đá làm vật liệu xây dựng ở Việt Nam ước tính đóng góp hơn 8% GDP của Việt Nam và tạo ra khoảng 240.000 việc làm.
Đối với Myanmar, mặc dù sản lượng khai thác khoáng sản của nước này còn khá nhỏ nhưng đang phát triển nhanh chóng và đóng góp đáng kể vào GDP. Quốc gia này được coi là một nhà sản xuất khoáng sản mới nổi nhanh chóng, với các khoản đầu tư vào thăm dò đang tăng nhanh chóng. Các mặt hàng khoáng sản do Myanmar sản xuất bao gồm: Antimon, nguyên liệu xi măng, than, đồng, florit, đá quí, chì, mangan, khí tự nhiên, niken, dầu mỏ, thiếc, vonfram và kẽm.
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào được coi là một quốc gia có triển vọng về địa chất và sản xuất nhiều loại khoáng sản khác nhau, bao gồm đồng, vàng, bạc, muối mỏ kali, barit, kẽm, sắt, than, chì, antimon, đá cẩm thạch, đá vôi. Sản lượng khoáng sản này tuy nhỏ nhưng đóng góp đáng kể vào GDP quốc gia của CHDCND Lào ở mức trung bình 6% mỗi năm từ năm 2016 - 2020. Tương tự, sản xuất xi măng, sỏi, muối, cát và đá đóng góp vào một phần nhỏ nhưng thiết yếu của nền kinh tế Campuchia trong năm 2017 và 2018, chủ yếu được sử dụng trong xây dựng cơ sở hạ tầng và các tòa nhà. Năm 2019, hoạt động thăm dò ở Campuchia đạt mức cao nhất, có thể là do sản phẩm mở rộng và sản lượng có giá trị hơn.
Brunei Darussalam có nguồn tài nguyên khai thác chủ yếu từ dầu và khí đốt, chiếm khoảng 90% lượng hàng hóa xuất khẩu của nước này. Chỉ một lượng nhỏ các khoáng chất khác được sản xuất, trong đó chỉ ghi nhận xi măng. Dữ liệu về sản xuất các chất ngoại lai, chẳng hạn như cát và sỏi không có sẵn. Brunei có năng lực và tiềm năng về chế biến khoáng sản nhờ nguồn năng lượng dồi dào, cộng với sản xuất phân bón quy mô lớn (amoniac/urê) và sản xuất hydro sử dụng khí tự nhiên làm nguyên liệu.
Những nhà sản xuất khoáng sản lớn ở mức quy mô thế giới
Bên cạnh các nhà sản xuất khoáng sản mới nổi, một số quốc gia thành viên ASEAN có lịch sử lâu đời về sản xuất khoáng sản. Trong đó phải kể đến Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan - những nhà sản xuất lớn của ASEAN ở mức sản xuất quy mô thế giới.
Indonesia là quốc gia khai thác mỏ dầu khí, thiếc, niken, đồng, vàng và than đá xếp hạng thế giới. Năm 2016, quốc gia này sản xuất 1% dầu khí, 18% sản lượng khai thác-thiếc toàn cầu (nhà sản xuất lớn thứ ba) và 9,5% niken, 3,6% đồng và 2,6% vàng, 18% than đá,… Lĩnh vực khoáng sản chiếm 7,2% GDP của Indonesia vào năm 2016 (bao gồm cả từ than đá), với tổng số việc làm trong lĩnh vực khai thác và liên quan khoáng sản hơn 1,4 triệu người.
Malaysia sản xuất khá nhiều mặt hàng khoáng sản như dầu - khí, bôxít, vàng, quặng sắt, mangan, thiếc, thiếc, angtimon, ngoài ra còn các khoáng sản vật liệu xây dựng và khoáng chất công nghiệp, năng lượng như: Đất sét, mica, dolomit, caolin-fenspat, đá vôi, cát silica, cát và sỏi, than đá. Khoáng sản được sản xuất từ các sản phẩm phụ của khai thác thiếc bao gồm ilmenit, monazit, xenotime, rutil, struverit (một khoáng chất niobi-tantali) và zircon cũng như bạc từ khai thác vàng. Các tài nguyên khoáng sản khác như đồng, niken và đá silica, hiện chưa được khai thác. Malaysia cũng có một nhà máy chế biến có ý nghĩa chiến lược đối với các nguyên tố đất hiếm, sử dụng các chất cô đặc từ một mỏ ở Tây Úc.
Philippines nắm giữ một phần tư sản lượng niken của thế giới và 6% tổng trữ lượng niken của thế giới. Philippines cũng là một nhà sản xuất đồng, vàng, nikel, crom, sắt, magan có tiềm năng lớn. Lĩnh vực khai thác đóng góp khoảng 1% vào GDP quốc gia và tạo ra khoảng 240.000 việc làm trực tiếp.
Thái Lan là một trong những nước có tài nguyên quặng: Sắt, đồng, mangan, vàng, bạc, thiếc, vonfram, kẽm và chì, fenspat và thạch cao, muối mỏ (Natri- Kali) hàng đầu thế giới. Là nhà sản xuất đồng cho đến năm 2015 cũng như vàng và bạc cho đến năm 2017. Quốc gia này có triển vọng đối với khoáng sản phân bón, kali. Lĩnh vực khai thác và khai thác đá là một ngành nhỏ nhưng ngày càng có nhiều người sử dụng lao động. Nước này rất có cơ hội tăng sản lượng khai thác khoáng sản.
Thương mại khoáng sản thúc đẩy nền kinh tế ASEAN
Mặc dù không phải là nước sản xuất khoáng sản nhưng Singapore lại nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu khoáng sản cho ngành sản xuất của mình. Quốc gia này là trung tâm tinh chế và kinh doanh vàng của ngành, đồng thời là chủ sở hữu của các nhà máy tinh chế vàng lớn của Indonesia trong ASEAN. Thương mại khoáng sản đóng vai trò quan trọng đối với Singapore, với các sản phẩm từ khoáng sản chiếm 14% tổng kim ngạch nhập khẩu và 25% kim ngạch xuất khẩu, với kim loại chiếm thêm 3% xuất khẩu. Điện tử sử dụng nhiều khoáng sản chiếm một phần lớn trong xuất khẩu và doanh số bán hàng được dự báo sẽ tiếp tục tăng.
Về thương mại trong và ngoài ASEAN, sản xuất khoáng sản đóng góp một phần chính của nền kinh tế nhiều quốc gia thành viên ASEAN, đặc biệt là Indonesia, CHDCND Lào, Malaysia và Myanmar. Là một nhà sản xuất khai khoáng quy mô thế giới, Indonesia tạo ra gần 40% kim ngạch xuất khẩu từ khoáng sản và kim loại chế biến. Đây cũng là nhà nhập khẩu chính khoáng sản và kim loại (34% tổng kim ngạch nhập khẩu) để cung cấp cho lĩnh vực sản xuất và nông nghiệp của mình. Đối với CHDCND Lào, khoáng sản và kim loại chiếm hơn một nửa kim ngạch xuất khẩu và hơn một phần tư kim ngạch nhập khẩu. Đối với Malaysia, lĩnh vực khoáng sản và kim loại tạo ra 25% xuất khẩu và 28% nhập khẩu. Các lĩnh vực sản xuất và chế biến khoáng sản của Malaysia tạo ra phần lớn hoạt động thương mại của đất nước. Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,7 tỷ USD và nhập khẩu đạt 2,9 tỷ USD. Myanmar, quốc gia có một số thương mại khoáng sản và kim loại tăng trưởng nhanh nhất, tạo ra 30% tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2018 (trị giá 30,1 triệu USD) và 37% nhập khẩu (trị giá 112,6 triệu USD).
Philippines coi khai khoáng là một lĩnh vực quan trọng, tuy nhiên khoáng sản và kim loại tạo ra một tỷ trọng thương mại nhỏ nhưng vẫn đáng kể, chiếm 9% xuất khẩu và 24% nhập khẩu. Xuất khẩu khoáng sản trị giá 1,3 tỷ USD và nhập khẩu là 1,7 tỷ USD trong năm 2018. Đóng góp của khoáng sản vào xuất khẩu của Thái Lan được báo cáo là đã giảm khi khai thác đồng, vàng và bạc đã ngừng trong vài năm qua. Tuy nhiên, giá trị thương mại khoáng sản năm 2018 rất đáng kể, với xuất khẩu đạt 1,1 tỷ USD và nhập khẩu là 746 triệu USD. Mặc dù sản xuất khoáng sản đáng kể ở Việt Nam, dữ liệu về thương mại cho thấy một đóng góp lớn cho cả xuất khẩu và nhập khẩu, có thể là do một phần lớn sản lượng của Việt Nam được sử dụng trong nước. Dữ liệu từ Giải pháp Thương mại Tích hợp Thế giới (WITS) cho thấy, giá trị xuất khẩu khoáng sản của Việt Nam trong năm 2017 là 1,1 tỷ USD và giá trị nhập khẩu ở mức 844 triệu USD.
Về sản xuất, xuất khẩu “sản phẩm khoáng sản” từ Brunei Darussalam chủ yếu là dầu mỏ và khoáng sản phi kim loại. Tuy nhiên, các sản phẩm khoáng sản và kim loại chiếm 35% tổng kim ngạch nhập khẩu của Brunei, điều này cho thấy nhu cầu nguyên liệu thô cho chế biến, sản xuất và xây dựng của quốc gia này. Giá trị xuất khẩu khoáng sản của Brunei năm 2018 nhỏ (90.000 USD), trong khi nhập khẩu ở mức 60,6 triệu USD. Campuchia chỉ xuất khẩu một lượng nhỏ khoáng sản, tuy nhiên, các sản phẩm khoáng sản để cung cấp cho các ngành công nghiệp của nước này, bao gồm cả nông nghiệp, cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong nhập khẩu.
Với triển vọng phát triển cho hợp tác khoáng sản ASEAN như trên, các quốc gia ASEAN sẽ cùng hợp tác xây dựng đầu tư về khoáng sản, phát triển ngành khoáng sản, mở rộng thương mại và đảm bảo các phương pháp tiếp cận bền vững đối với phát triển khoáng sản.
NGUYỄN VĂN NGUYÊN
Phó Tổng cục trưởng
Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam