Phát triển vùng nguyên liệu hàng hóa quy mô lớn góp phần cải thiện tổ chức sản xuất, ổn định chất lượng sản phẩm, giảm tổn thất sau quy hoạch, qua đó nâng cao thu nhập cho nông dân, hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp; đồng thời tạo lợi thế cạnh tranh cho các mặt hàng nông sản chủ lực cả trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Ngày 19/12, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị Tổng kết Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022 - 2025.
Hội nghị nhằm đánh giá toàn diện những kết quả sau 4 năm thực hiện Đề án; phân tích bài học kinh nghiệm và đề xuất các chính sách mở rộng vùng nguyên liệu cho giai đoạn 2026-2030. Đây là diễn đàn quan trọng để cơ quan khuyến nông, các địa phương và các tổ chức quốc tế xây dựng giải pháp phát triển nông nghiệp trong tương lai.
Phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam khẳng định, Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025 đã hoàn thành vai trò lịch sử. Đề án đã góp phần quy hoạch rõ các cây trồng, vật nuôi chủ lực, tạo nền tảng quan trọng để doanh nghiệp yên tâm đầu tư, hình thành các chuỗi liên kết vùng nguyên liệu ổn định và bền vững.
Trên cơ sở những kết quả đạt được, Thứ trưởng bày tỏ mong muốn lãnh đạo các địa phương tiếp tục nghiên cứu mở rộng và nâng tầm Đề án, bảo đảm tính kế thừa và phát huy hiệu quả lâu dài. Trong đó, cần triển khai đồng bộ mã số vùng trồng, đồng thời tiếp tục quan tâm phát triển các cây trồng chủ lực. Đối với những địa phương chưa triển khai hết diện tích theo quy hoạch, cần có giải pháp hỗ trợ kịp thời để bảo đảm tính đồng bộ và hiệu quả chung.
Thứ hai, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ mới trong tiêu thụ và liên kết sản xuất, đặc biệt là đầu tư cho các nền tảng phần mềm quản lý diện tích, quy trình canh tác. Việc tổ chức sản xuất cần tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Bên cạnh đó, việc bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển vùng nguyên liệu, chú trọng mở rộng bảo hiểm cây trồng, vật nuôi, gắn phát triển sản xuất với nâng cao đời sống người dân nông thôn đóng vai trò quan trọng.
Báo cáo những kết quả nổi bật của Dự án đầu tư kết cấu hạ tầng hỗ trợ HTX phát triển vùng nguyên liệu, ông Đồng Xuân Huy, Đại diện Ban Quản lý các Dự án nông nghiệp cho biết, dự án đã hình thành vùng nguyên liệu tập trung, ổn định, có ranh giới và quy mô rõ ràng. Qua đó, tạo kết nối không gian sản xuất - logistics - chế biến, thay vì sản xuất manh mún, rời rạc.
Đến nay, 5 vùng nguyên liệu thí điểm đã cơ bản hình thành rõ nét, phát triển cả về quy mô diện tích cũng như chất lượng hoạt động. Việc tổ chức lại sản xuất theo vùng nguyên liệu tập trung giúp giảm chi phí nguyên liệu từ 15–20%, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường và thúc đẩy liên kết bền vững theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp thu mua với nông dân.
Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển Nông thôn (PTNT) cho biết, vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn phải đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật, môi trường và xã hội, tập trung phát triển và hoàn thiện theo 6 trục trọng tâm gồm: nâng cấp và phát triển hạ tầng; phát triển các tổ chức của nông dân; khuyến nông - khuyến nông cộng đồng; phát triển liên kết chuỗi giá trị; dịch vụ công vùng nguyên liệu (VNL) hiệu quả và chuyển đổi số và truy xuất nguồn gốc.
Tại Hội nghị, ông Lê Đức Thịnh cũng công bố dự thảo Bộ tiêu chí và Kế hoạch mở rộng Vùng nguyên liệu nông, lâm thủy sản và diêm nghiệp đạt chuẩn. Trong đó, bao gồm 4 tiêu chí: quy mô VNL nông sản, hạ tầng phục vụ SXKD, tổ chức sản xuất vùng nguyên liệu nông sản, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số và hiệu quả sản xuất trong VNL nông sản đạt chuẩn.
Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và PTNT nhấn mạnh, hệ thống tiêu chí VNL nông sản đạt chuẩn được xây dựng nhằm giúp các địa phương có căn cứ để xác định VNL nông sản đạt chuẩn, đánh giá hiệu quả hoạt động phát triển VNL nông sản. Đồng thời, đây là căn cứ để xác định các nội dung cần thực hiện để xây dựng VNL nông sản đạt chuẩn, bố trí nguồn lực của nhà nước và thu hút các nhà đầu tư.
Kinh nghiệm thực tiễn phát triển vùng nguyên liệu
Phát biểu tại phiên thảo luận, ông Nguyễn Thành Công, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La cho biết, việc triển khai các đề án phát triển nông nghiệp bền vững đã giúp Sơn La huy động hiệu quả nguồn lực đầu tư, đặc biệt cho hạ tầng giao thông phục vụ sản xuất. Qua đó, tỉnh nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp, thúc đẩy tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh cơ giới hóa và hình thành các vùng nguyên liệu đạt chuẩn, gắn kết chặt chẽ chuỗi sản xuất giữa doanh nghiệp chế biến, hợp tác xã và người nông dân. Nhờ các chuỗi sản xuất vận hành đúng định hướng, 9 tháng đầu năm, kinh tế Sơn La đạt mức tăng trưởng 7,98%, thuộc nhóm cao của cả nước.
Từ thực tiễn triển khai, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La nhấn mạnh yêu cầu mở rộng diện tích sản xuất tập trung, đa dạng hóa cây trồng và xây dựng chuỗi sản xuất khép kín nhằm ổn định vùng trồng. Đồng thời, ông đề xuất nhân rộng mô hình trên phạm vi cả nước theo lợi thế từng địa phương; tiếp tục đầu tư mạnh cho hạ tầng sản xuất nông nghiệp; coi việc cấp mã số vùng trồng và xác định rõ vùng sản xuất phục vụ xuất khẩu là nhiệm vụ then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản.
Chia sẻ kinh nghiệm từ thực tiễn địa phương, ông Trần Đình Hiệp, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị khẳng định, việc đầu tư xây dựng 5 tuyến đường phục vụ sinh kế đã tạo “đòn bẩy” cho sản xuất nông nghiệp của tỉnh, giúp giảm chi phí vận chuyển, thuận lợi hơn trong khâu tiêu thụ. Trên nền tảng hạ tầng đó, các hoạt động khuyến nông được triển khai đồng bộ, thúc đẩy sự tham gia của hợp tác xã và doanh nghiệp, từng bước hình thành các mối liên kết trong tổ chức sản xuất.
Tại hội nghị, đại diện tỉnh Quảng Trị đề xuất tiếp tục mở rộng Đề án sang các địa bàn mới sau sáp nhập, gắn với rà soát, xác định các vùng nguyên liệu và vùng trồng rừng có tiềm năng. Đồng thời, địa phương kiến nghị ưu tiên đầu tư hạ tầng phục vụ lưu thông hàng hóa, tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã, thu hút doanh nghiệp tham gia thu mua, tiêu thụ sản phẩm; qua đó góp phần quy hoạch vùng sản xuất tập trung và nâng cao chất lượng, tính ổn định của nguồn nguyên liệu.
Ông Trần Thanh Hiệp, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang cho biết, việc triển khai Đề án đã góp phần quan trọng đổi mới tổ chức sản xuất nông nghiệp của địa phương, thể hiện rõ qua đầu tư hạ tầng giao thông phục vụ cơ giới hóa, nâng cao vai trò của hợp tác xã và cộng đồng nông dân. Thông qua các hoạt động tập huấn, tuyên truyền và phát huy hiệu quả hệ thống khuyến nông cộng đồng, An Giang từng bước thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp vào chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ, mở rộng liên kết đối với mặt hàng lúa gạo và nhiều sản phẩm nông, lâm, thủy sản khác. Việc đẩy mạnh cấp mã số vùng trồng được xem là nền tảng quan trọng để chuẩn hóa sản phẩm, gia tăng uy tín thị trường và tạo dư địa phát triển bền vững.
Thời gian tới, tỉnh đề xuất tiếp tục mở rộng phạm vi triển khai Đề án tại các vùng trọng điểm; tăng cường hỗ trợ hợp tác xã và khuyến nông cộng đồng, gắn sản xuất với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc.
Về phía hiệp hội, ông Võ Văn Dự, Chủ tịch Hội Chủ rừng phát triển bền vững TP. Huế cho rằng, Đề án đã tạo được sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị, qua đó góp phần gia tăng giá trị bền vững cho khu vực miền núi. Ông đề xuất cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hợp tác xã trong tích tụ đất nông nghiệp; đồng thời bổ sung các chính sách về bảo hiểm rừng trồng và tín dụng phù hợp nhằm hỗ trợ liên kết chuỗi, phát triển vùng nguyên liệu ổn định.
Ở góc độ doanh nghiệp, bà Ngô Tường Vy, Giám đốc Công ty TNHH Chánh Thu, cho rằng cần tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp và thương lái vào các hợp tác xã tại vùng trồng để việc liên kết sản xuất - tiêu thụ được thuận lợi, hiệu quả hơn. Doanh nghiệp cũng kiến nghị ưu tiên đầu tư hạ tầng tại các vùng có năng lực sản xuất, tập trung phát triển vùng nguyên liệu quy mô lớn; hỗ trợ hợp tác xã xây dựng các điểm tập kết nguyên liệu nhằm rút ngắn khoảng cách tiếp cận vùng sản xuất. Về truy xuất nguồn gốc, bà đề xuất triển khai thí điểm đồng bộ theo chuỗi liên kết, làm cơ sở để nhân rộng trong thời gian tới.
Những kết quả đạt được cùng các kiến nghị của địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp tại Hội nghị là cơ sở thực tiễn quan trọng để Bộ Nông nghiệp và Môi trường hoàn thiện chính sách, mở rộng vùng nguyên liệu giai đoạn 2026 - 2030 theo hướng đồng bộ, hiện đại và bền vững, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường cả trong và ngoài nước