
TS. Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội: Cần nhanh chóng áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường biển
Nước ta cần có những chiến lược sinh kế biển cụ thể cho ngư dân trong tương lai; quản lý và phát triển kinh tế biển (KTB) gắn chặt với BVMT là điều hết sức quan trọng để Việt Nam hướng tới. Cần lấy việc sử dụng hợp lý TN&BVMT biển là những yếu tố nền tảng cho phát triển KTB hiệu quả và bền vững dựa trên việc bảo toàn nguồn vốn tự nhiên biển; bảo vệ và đầu tư cho các hệ sinh thái biển, ven biển, hải đảo. Bên cạnh đó, các cơ quan liên quan cần tăng cường giám sát, rà soát và quản lý các nguồn thải gây ô nhiễm ra môi trường biển; đầu tư, thiết lập hệ thống quan trắc, giám sát môi trường tại các địa phương; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về những tác hại của các vấn đề môi trường xuyên biên giới đối với TN&MT biển trong khu vực,...
Để giải quyết những thách thức về ONMT biển, cần nhanh chóng áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường biển như: Lệ phí ô nhiễm, lệ phí xả thải, phí sử dụng biển, phí sản phẩm, lệ phí hành chính thuế, cấp phép và thu hồi giấy phép khai thác, sử dụng biển, đảo, các quỹ môi trường biển và các khoản trợ cấp khác. Đồng thời, các công cụ pháp lý liên quan đến hệ thống kiểm tra, kiểm soát liên ngành trong kiểm soát môi trường biển cũng được xây dựng, hoàn thiện như: Tiêu chuẩn môi trường, đánh giá tác động môi trường, quan trắc cảnh báo môi trường, xác định các điểm nóng môi trường hoặc ô nhiễm, các loại giấy phép và biện pháp kiểm soát sử dụng đất ven biển và mặt nước biển và hải đảo.
PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi - Đại biểu Quốc hội Khóa XV: Truyền thông giúp người dân nâng cao nhận thức, thực hiện tốt pháp luật về biển đảo
Báo cáo hiện trạng môi trường của Bộ TN&MT cho thấy, môi trường sinh thái biển Việt Nam tiếp tục suy giảm, tính đa dạng sinh học nhất là vùng ven bờ ngày càng bị đe dọa. Rừng ngập mặn bị tàn phá nghiêm trọng. 90% rạn san hô bị đe dọa hủy hoại. Khoảng 85 loài hải sản trong tình trạng nguy cấp ở nhiều mức độ khác nhau, trong đó 70 loài đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Đặc biệt, những năm gần đây, tại các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên,… đã xảy ra hiện tượng thủy triều đỏ gây thiệt hại lớn cho ngành nuôi trồng thủy sản. Chưa kể ô nhiễm không khí cũng có tác động mạnh mẽ tới môi trường sinh thái biển, bởi nồng độ khí cacbonic trong không khí gia tăng sẽ làm lượng cacbonic trong nước biển tăng, dẫn đến thay đổi môi trường sống của các loài thực vật biển,…
Tôi cho rằng ô nhiễm, suy thoái môi trường biển đã ảnh hưởng trực tiếp đến cơ sở nguồn lợi của các khu bảo tồn biển nước ta. Đặc biệt, ô nhiễm rác thải nhựa, túi ni lông ở nước ta hiện nay rất nghiêm trọng; khiến các rạn san hô của Việt Nam đang biến đổi theo chiều hướng xấu, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính bền vững nghề cá biển nước ta.
Để bảo tồn và bảo vệ môi trường biển, phát triển KTB hiệu quả, cần thực hiện pháp luật tốt, truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức cho dân cư sống trong và lân cận KBT biển để họ tham gia chủ động hơn vào việc quản lý KBT biển, ủng hộ ban quản lý trong thực hiện kế hoạch quản lý, góp phần giảm sức ép khai thác bất hợp lý tài nguyên, nguồn lợi thủy sản.
Ông Vũ Minh Lý - Phó Giám đốc Trung tâm Truyền thông Tài nguyên và Môi trường: Vai trò của truyền thông rất quan trọng
Những năm gần đây, biển và đại dương đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững về kinh tế, đảm bảo QP-AN và đối ngoại, hợp tác quốc tế. Vì vậy, việc đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao trách nhiệm của mọi tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng và mỗi người dân về vị trí, vai trò của biển đảo, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển hướng tới sự phát triển bền vững TN&MT biển Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 36 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược phát triển bền vững KTB Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là rất quan trọng và cần thiết, cần được lồng ghép trong mọi hoạt động.
Bởi vì, cùng với sự phát triển KT-XH của đất nước, đời sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng nâng cao; nâng lên trình độ tri thức, nhận thức nói chung và nhận thức về chính sách, pháp luật về biển, hải đảo nói riêng. Việc nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của toàn xã hội về bảo vệ và phát triển bền vững TN&MT biển nhằm tạo ra tốc độ phát triển nhanh, hiệu quả cao từ tiềm năng KTB; góp phần xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển.
TS. Dư Văn Toán - Viện nghiên cứu Hiển và Hải đảo: Thiết lập các khu bảo tồn biển di động để góp phần gìn giữ tài nguyên sinh vật biển
Cần áp dụng nhiều cách tiếp cận để bảo vệ TN&MT biển, phục vụ phát triển kinh tế bền vững. Theo đó, khu bảo tồn biển cố định có tác dụng bảo vệ các cá thể sống cố định, không di cư nhưng lại không hiệu quả trong việc bảo vệ các loài di cư. Một số loài sinh vật biển sống di cư trong phạm vi hàng nghìn kilômét như cá ngừ, cá kiếm, rùa biển, động vật có vú sống ở biển như cá voi, các loài chim biển,… Khi đi khỏi khu vực bảo tồn chúng có nguy cơ trở thành đối tượng bị đánh bắt.
Một giải pháp để bảo vệ các loài di cư là thiết lập các khu bảo tồn biển di động (KBTBDD) có vùng ranh giới biển linh hoạt và biến động trên các vùng biển quốc tế và xuyên quốc gia. Các loài di cư sẽ được bảo vệ nhờ các vùng bảo tồn di chuyển theo con đường di cư của loài.
Theo các nghiên cứu, đánh giá hiện nay, mô hình bảo tồn đa dạng sinh học hiện có trên vùng biển Việt Nam chỉ đạt 0,4% diện tích bảo tồn biển. Trong khi đó, chỉ tiêu được nêu ra trong Chiến lược phát triển bền vững KTB Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là cần chiếm ít nhất 4% diện tích BTB vào năm 2030 và 6% diện tích BTB vào năm 2045. Vì vậy, cần bổ sung cách tiếp cận mới trong bảo vệ đa dạng sinh học biển tại Việt Nam.
Để thực hiện được KBTBDD, nước ta cần có các nghiên cứu ngay từ bây giờ để xây dựng bộ tiêu chí và thiết lập hệ thống các KBTBDD trên vùng biển Việt Nam, đặc biệt khu vực biển ngoài khơi gần với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Việt Nam cũng có thể kết nối hệ thống 16 khu BTB cố định, các khu bảo vệ san hô, khu dự trữ nguồn lợi hiện có với các KBTBDD mới để hoàn chỉnh hệ thống bảo tồn đa dạng sinh học biển Việt Nam. Điều này có thể đáp ứng chỉ tiêu gia tăng diện tích bảo tồn biển lên 4% vào năm 2025 và 6% vào năm 2030 theo mục tiêu của Chiến lược phát triển bền vững KTB Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ông Trần Minh Trí - Phó Bí thư Tỉnh đoàn Phú Yên: Kêu gọi thanh niên chung tay bảo vệ môi trường biển
Thời gian qua, tỉnh đoàn Phú Yên tuyên truyền, vận động, phát huy thanh niên xung kích đi đầu trong các hoạt động bảo vệ TN&MT biển, ứng phó với BĐKH vì sự phát triển bền vững của tỉnh Phú Yên.
Theo đó, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn luôn xác định: “Thanh niên xung kích ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường” là nội dung quan trọng trong phong trào “Thanh niên tình nguyện”. Ban Thường vụ Tỉnh đoàn đã chú trọng đổi mới, sáng tạo hình thức và nội dung tuyên truyền đến đoàn viên, thanh niên thông qua các cuộc thi sáng tác clip tuyên truyền, các hoạt động tuyên truyền hưởng ứng Giờ Trái đất, Ngày Môi trường thế giới, Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn, Chiến dịch Hãy làm sạch biển; hoạt động đồng loạt ra quân Ngày chủ nhật xanh; công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng: Xây dựng phóng sự, tin, bài viết tuyên truyền; tài liệu sinh hoạt chi đoàn, đăng tải hình ảnh và thông tin hoạt động trên mạng xã hội nhằm phát huy hiệu quả tuyên truyền đến đông đảo đoàn viên, thanh thiếu nhi.
Từ chủ trương chung của Tỉnh đoàn, Ban Thường vụ Thành đoàn, Huyện đoàn trên địa bàn tỉnh Phú Yên cùng đồng lòng thực hiện vì mục tiêu phát triển KTB trên nền tảng tăng trưởng xanh. Công tác tuyên truyền giáo dục bảo vệ TN&MT biển là việc làm không thể thiếu để giúp đoàn viên thanh thiếu nhi và mọi người hiểu biết về TNMT biển. Vì thế, chỉ có việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục với sự tham gia tích cực của các cấp, ngành, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng là giải pháp quan trọng trong công tác bảo vệ TNMT biển, góp phần phát triển bền vững đất nước.
Ông Trương Công Ngàn - Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ninh: Tuyên truyền, nhân rộng các nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong phát triển KTB
Quảng Ninh là địa phương có nhiều tiềm năng, lợi thế nổi bật để phát triển KTB, tỉnh đã chỉ đạo quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết số 36-NQ/TW. Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, địa phương đã tạo được những dấu ấn nổi bật, nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân vùng biển, ven biển và bảo vệ biên giới, biển đảo được nâng cao; thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển khu kinh tế và ven biển; hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị, dịch vụ, du lịch, cảng biển,...
Để tăng cường hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền cho sự phát triển KTB bền vững và góp phần BVMT, tài nguyên biển, trong thời gian tới, Quảng Ninh đang xây dựng kế hoạch truyền thông về KTB một cách chủ động, đa dạng về nội dung và phong phú về hình thức. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, nhân rộng các nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong phát triển KTB; theo dõi, nắm chắc tình hình, nắm vững các thông tin, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch chống phá các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về vấn đề biển, đảo để đấu tranh, phản bác.