Đại biểu Quốc hội: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với tài nguyên nước

Thứ hai, 10/7/2023, 08:58 (GMT+7)
logo Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV, Quốc hội thảo luận tại Tổ về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Tạp chí Tài nguyên và Môi trường xin giới thiệu một số ý kiến thảo luận của đại biểu Quốc hội góp ý cho Dự án Luật này.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định: Dự thảo Luật mới quy định TNN gồm nước dưới đất, nước mặt, nước mưa và nước biển, tuy nhiên, không có quy định nước thải. Trên thế giới ngày nay, nước thải là một tài nguyên và nguồn nước ngày càng cạn kiệt mà trong Luật cũng đặt ra vấn đề tái sử dụng chính là nước thải.

Đại biểu Quốc hội: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với tài nguyên nước

Ở nước ta chủ yếu là nước chảy vào là nước sông từ Trung Quốc, Lào, Campuchia và chỉ có 2 con sông chảy ra là sông Kỳ Cùng và sông Sêrêpôk. Theo thống kê, ở nguồn nước của chúng ta chảy vào chỉ có 93%, chảy ra chỉ có 6%, ngoài ra là nước mưa. Trong khi đó, nguồn sinh thủy là rừng thì ngày càng cạn kiệt, do đó, vấn đề quản lý TNN là vấn đề không phải là một ngành đơn ngành mà là vấn đề đa ngành tổng hợp.

Tài nguyên nước ở nước ta so với thế giới là phong phú nhưng phân bổ không đều về mặt lãnh thổ, thời gian, về mùa mưa thì thừa, mùa hạn thì thiếu như ở Khánh Hòa, mùa mưa thì thừa 3 tỷ m3 nước, mùa hạn thì thiếu gần 800 triệu. Bên cạnh đó, vấn đề TNN của chúng ta đang đối mặt với vấn đề sử dụng lãng phí, khai thác quá mức, ô nghiễm nghiêm trọng là vấn đề đặt ra để giải quyết trong Dự thảo Luật. Trong khi đó, không tái tạo sử dụng lại nhiều dẫn tới việc hàng ngày bao nhiêu triệu m3 nước thải ra mà nếu có thể sử dụng công nghệ để tái sử dụng thì rất tốt, rất quý thay vì phải khoan, đục,… để tạo nguồn nước. Lãng phí thất thoát có tài liệu thống kê ở nước ta từ 37 - 50%. Do đó, những vấn đề trên cần đặt ra trong Dự thảo Luật vì nước không phải thứ không phải trời cho không mà là tài sản, hàng hóa có giá trị, và ngày càng có giá trị. Vì vậy, Nhà nước phải điều tiết nước như điều tiết điện. Đồng thời, do nước là hàng hóa mà đã là hàng hóa thì phải trả tiền và TNN phải là một ngành kinh tế chứ không chỉ là quản lý Nhà nước. Do đó, Ban soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện Dự thảo Luật.

Đại biểu Đỗ Đức Duy - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái: Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) ngoài việc kế thừa các quy định còn phù hợp của luật hiện hành, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, chính sách mới theo hướng tiếp cận với thông lệ quốc tế về quản lý tổng hợp TNN và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.

Đại biểu Quốc hội: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với tài nguyên nước

Dự thảo Luật đã có quy định nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả do nước gây ra tại Điều 4. Trong đó, đã bổ sung quy định về bảo đảm an ninh nguồn nước tại khoản 9. Quy định này là một yêu cầu cần thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay, không chỉ các quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu đều phải quan tâm, xử lý vấn đề an ninh phi truyền thống nói chung, trong đó có an ninh nguồn nước.

Dự thảo cũng bổ sung thêm các quy định về các công cụ kinh tế, các chính sách và nguồn lực cho TNN, bổ sung quy định liên quan đến cơ chế tài chính nhằm làm rõ giá trị kinh tế của TNN trong phát triển KT-XH theo nguyên tắc kinh tế thị trường. Việc bổ sung quy định này là rất cần thiết để góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm và thái độ ứng xử của các tổ chức, cá nhân đối với TNN, đây là một trong các nguồn tài nguyên quan trọng và quý giá hàng đầu của quốc gia cùng với tài nguyên đất đai. Từ đó có tư duy và cách tiếp cận khoa học, phù hợp thực tiễn về giá trị kinh tế của TNN cũng như việc bảo vệ, khai thác, sử dụng, tiết kiệm, hiệu quả, an toàn, bền vững TNN, phục vụ phát triển KT-XH và đời sống nhân dân. Đồng thời, những quy định mới này cũng góp phần tính đúng, tính đủ chi phí TNN trong giá thành các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ theo cơ chế thị trường để tránh làm lãng phí, thất thoát nguồn lực nhà nước cũng như hạn chế các rủi ro cho các sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam khi hội nhập vào thị trường quốc tế; tránh bị từ chối hoặc bị áp thêm các sắc thuế do vi phạm các quy định về sử dụng TNN theo thông lệ quốc tế.

Đại biểu Lê Đào An Xuân - Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên: Theo tôi, tại Điều 8 danh mục ao, hồ, đầm, phá không được san lấp, vấn đề đặt ra là nếu không được san lấp thì việc giảm thiểu diện tích, thể tích của hồ có được áp dụng hay không? Đề nghị cơ quan soạn thảo cần làm rõ, nghiên cứu thêm về nội dung này.

Đại biểu Quốc hội: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với tài nguyên nước

Về các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 10, trong đó, nghiêm cấm hành vi xả nước thải vào nguồn nước dưới đất, điều này rất khó triển khai trong thực tiễn. Luật TNN năm 2012 cho phép xả nước thải vào những nơi có ao, hồ, đầm, phá, sông ngòi thì được xả thải, nhưng vùng miền núi không có các thủy vật nêu trên, cấm xả thải vào nguồn nước dưới đất, kể cả tái sử dụng tưới cây cũng cấm, thì rất khó cho việc xử lý nguồn nước thải này. Trường hợp này gặp nhiều ở các trang trại chăn nuôi đặt ở khu vực miền núi.

Điều 29 của dự thảo cũng nhắc lại quy định tương tự như Điều 10, do vậy, tôi đề nghị Bộ TN&MT cần làm rõ hơn tiêu chí này. Bởi vì, nếu xử lý xả thải đạt tiêu chuẩn nước mặt theo quy định thì đòi hỏi chi phí rất lớn, trong khi hiện nay, có nhiều quy định chuyên ngành về tái sử dụng nước thải sau chăn nuôi để phục vụ cho các dự án lâm nghiệp, nông nghiệp, có thể tái sử dụng theo hướng tiết kiệm, xem đấy là một nguồn đầu vào, áp dụng theo đúng quy chế kinh tế tuần hoàn đối với sử dụng nước.

Về Điều 20, một trong những nội dung cần điều chỉnh là nếu các dự án, chương trình trọng điểm quốc gia mới hình thành ảnh hưởng đến TNN thì phải điều chỉnh quy hoạch. Tôi đề nghị Ban soạn thảo xem xét thêm khi thực hiện các dự án này thì căn cứ dựa trên quy hoạch nào, chiến lược nào để đảm bảo đáp ứng cho các dự án, công trình đó.

Liên quan đến điều hòa, phân phối nguồn nước tại Điều 36, dự thảo có nêu “xem xét dựa trên kịch bản nguồn nước, sử dụng công cụ hỗ trợ” gây khó hiểu, đề nghị bổ sung thêm nội dung tham vấn cộng đồng các nhà khoa học và chính quyền địa phương khi thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước.

Về tiền cấp quyền khai thác TNN (Điều 66), có ý kiến đề nghị làm rõ đối tượng phải nộp tiền cấp quyền khai thác TNN quy định tại khoản 1, 2; làm rõ việc bổ sung quy định thu tiền cấp quyền khai thác TNN phục vụ sản xuất nông nghiệp vì hiện nay lĩnh vực này do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện và thủy lợi phí vẫn đang được Nhà nước hỗ trợ; quy định cụ thể nguyên tắc thu, cách tính thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác TNN.

Phương Chi (lược ghi)

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11+12 năm 2023