Đại dịch Covid-19 và vấn nạn 8 triệu tấn rác thải nhựa đổ ra đại dương

Thứ ba, 28/12/2021, 21:14 (GMT+7)
logo Trên khắp thế giới, đại dịch Covid - 19 dẫn đến nhu cầu gia tăng đối với các loại nhựa sử dụng một lần như khẩu trang, găng tay và tấm che mặt,… Ngoài số rác thải được thu gom, xử lý vẫn còn rất nhiều các loại rác thải được thải bỏ không đúng nơi quy định, trôi dạt kéo theo ra cửa sông, cửa biển và đổ hết vào đại dương. Hậu quả là lượng rác thải nhựa (RTN) đổ ra sông và các đại dương đến nay đã ngoài tầm kiểm soát, thậm chí tăng vọt.

Đại dịch Covid-19 và vấn nạn 8 triệu tấn rác thải nhựa đổ ra đại dương

Từ vấn nạn toàn cầu

Các nhà nghiên cứu tại Trường Khoa học Khí quyển thuộc Đại học Nam Kinh (Trung Quốc) và Viện Hải dương học UC San Diego’s Scripps (Mỹ) đã thực hiện dự đoán về mức độ và số phận của rác thải trong các đại dương trong thời đại dịch Covid -19.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng mô hình RTN trong đại dương mới được phát triển để định lượng tác động của đại dịch Covid -19 đối với việc thải nhựa từ các nguồn trên đất liền. Dựa vào mô hình này, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng hơn 8 triệu tấn chất thải nhựa liên quan đến đại dịch Covid - 19 trong tổng số 25.900 tấn RTN đổ vào các đại dương trên toàn cầu. GS. Yanxu Zhang thuộc Trường Khoa học Khí quyển thuộc Đại học Nam Kinh, tác giả nghiên cứu trên cho biết: “Mô hình mà chúng tôi áp dụng nghiên cứu mô phỏng cách nước biển di chuyển chất thải nhựa, nhờ gió, bị phân hủy bởi ánh sáng mặt trời, sinh vật phù du bám vào, đổ bộ lên các bãi biển và chìm xuống. Nghiên cứu này nhằm trả lời các câu hỏi như “điều gì xảy ra nếu chúng ta thêm một lượng nhựa nhất định thải và đọng lại dưới đáy đại dương?”.

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện, hầu hết đang xâm nhập vào đại dương từ các con sông. Các con sông ở châu Á chiếm 73% tổng lượng nhựa thải ra, sông Shatt al-Arab mang theo 5.200 tấn rác thải PPE, sông Indus vận chuyển 4.000 tấn, còn con số của sông Dương Tử (Trung Quốc) là 3.700 tấn.

Kết hợp dữ liệu từ khi bắt đầu đại dịch Covid - 19 từ năm 2020 đến tháng 8/2021, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, phần lớn chất thải nhựa toàn cầu đổ vào các đại dương là từ châu Á, trong đó chất thải bệnh viện chiếm phần lớn lượng thải trên đất liền. “Khi chúng tôi bắt đầu thực hiện phép toán, chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy một lượng chất thải y tế về cơ bản lớn hơn đáng kể so với lượng chất thải từ các cá nhân và phần lớn đến từ các nước khu vực châu Á, mặc dù đó không phải là những nơi là tâm dịch” - nhà khoa học Amina Schartup thuộc Viện Scripps Oceanography, đồng tác giả nghiên cứu trên cho biết. Cụ thể, 46% lượng RTN toàn cầu xuất phát từ châu Á (do hoạt động sử dụng khẩu trang của cư dân), tiếp theo là châu Âu (24%), châu Mỹ (22%) và châu Phi (8%). Trong đó, 87,4% lượng rác thải là từ các bệnh viện, bao bì và bộ dụng cụ xét nghiệm chiếm khoảng 5%.

Nguy cơ tổn thương nghiêm trọng hệ sinh thái Bắc Băng Dương đã và đang hiện hữu. Trong vòng 3 - 4 năm, một phần đáng kể của RTN dự kiến sẽ đổ bộ lên các bãi biển hoặc lắng đọng dưới đáy biển. Một phần nhỏ hơn sẽ trôi theo các dòng chảy đại dương, cuối cùng bị mắc kẹt ở trung tâm các lưu vực đại dương, có thể trở thành các mảng rác và vùng tích tụ nhựa dạng mạch ở Bắc Băng Dương. Mô hình nghiên cứu cho thấy, khoảng 80% mảnh vụn nhựa đi vào Bắc Băng Dương sẽ nhanh chóng chìm xuống và một vùng tích tụ nhựa dạng mạch được mô hình hóa sẽ hình thành vào năm 2025.

Hệ sinh thái Bắc Băng Dương vốn được coi là dễ bị tổn thương do môi trường khắc nghiệt và biến đổi khí hậu. Các nhà nghiên cứu cho biết, tác động sinh thái tiềm ẩn của việc tiếp xúc với chất thải nhựa tích tụ ở Bắc Băng Dương có thể làm tăng thêm nhiều lo ngại.

Để chống lại dòng RTN đổ ra đại dương, các nhà nghiên cứu trên kêu gọi sự quản lý tốt hơn đối với rác thải y tế ở các tâm dịch Covid -19, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Các nhà nghiên cứu cũng kêu gọi cộng đồng toàn cầu nhận thức về tác động môi trường của thiết bị bảo vệ cá nhân (PPE) và các sản phẩm nhựa khác, đồng thời phát triển các công nghệ tiên tiến để thu gom, phân loại, xử lý và tái chế chất thải nhựa tốt hơn, đồng thời phát triển các vật liệu thân thiện với môi trường hơn. “RTN liên quan đến Covid -19 chỉ là một phần của một vấn đề lớn hơn mà chúng ta phải đối mặt trong Thế kỷ 21: RTN. Để giải quyết vấn đề này, cần rất nhiều cải tiến kỹ thuật, chuyển đổi nền kinh tế và thay đổi lối sống” - nhà nghiên cứu Zhang nhấn mạnh.

Đại dịch Covid-19 và vấn nạn 8 triệu tấn rác thải nhựa đổ ra đại dương

Kinh nghiệm cho Việt Nam

Là quốc gia có biển đang nằm trong bối cảnh chung với vấn nạn này, nước ta tiếp tục có những đánh giá, nhìn nhận rút ra các bài học kinh nghiệm để xây dựng luật pháp, chính sách liên quan đến RTN đại dương cho Việt Nam như:

Chú trọng khâu xử lý RTN trước khi bị thoát ra môi trường: Nhóm giải pháp ngăn chặn, xử lý RTN trước khi bị thoát ra môi trường thường được các nước trên thế giới chú trọng. Trong quá trình xây dựng luật pháp và chính sách liên quan đến RTN, Việt Nam nên tập trung nhiều nguồn lực và thiết lập nhiều quy định cho các biện pháp thuộc nhóm giải pháp này hơn. Các biện pháp liên quan gồm hạn chế, cấm sản xuất và sử dụng các vật liệu nhựa khó phân hủy; khích lệ việc sản xuất và sử dụng các chất liệu có thể phân hủy hoàn toàn trong môi trường; yêu cầu các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm nhà sản xuất mở rộng, thu hồi và xử lý các sản phẩm bị thải loại của mình.

Thực hiện các biện pháp xử lý RTN đã bị thoát ra môi trường: Hiện luật pháp Việt Nam chưa có quy định cụ thể về việc thực hiện các biện pháp xử lý RTN đã bị thoát ra môi trường. Kinh nghiệm về các biện pháp đã được quy định trong luật pháp của Mỹ, Úc và Liên minh châu Âu như đã trình bày ở trên là rất bổ ích đối với nước ta. Chúng ta có thể bổ sung các quy định về việc thường xuyên đánh giá, theo dõi tình trạng ô nhiễm môi trường biển, trong đó có tiêu chí ô nhiễm RTN; lên danh sách các vùng biển bị ô nhiễm nặng; xây dựng các kế hoạch xử lý rác thải trên biển nói chung và RTN nói riêng; và có các chính sách hỗ trợ, khích lệ các hoạt động thu gom RTN ở các bãi biển.

Bổ sung các quy định liên quan đến các dụng cụ đánh cá bị mất hoặc bị bỏ: Mặc dù cả nước có hơn 100 nghìn tàu cá đang hoạt động, Việt Nam vẫn thiếu quy định liên quan đến các dụng cụ đánh bắt cá bị mất hoặc bị bỏ. Điều này đang góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm RTN đại dương. Chúng ta cần xem xét bổ sung các quy định về hạn chế hoặc cấm sử dụng các dụng cụ đánh cá bằng nhựa không thể phân hủy hoặc cấm bỏ lại các dụng cụ này trên biển; bắt buộc phải đánh dấu các dụng cụ đánh cá và yêu cầu ngư dân phải nhanh chóng báo cáo việc mất, bỏ lại các dụng cụ đánh cá trên biển. Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ việc sử dụng các dụng cụ đánh cá làm bằng các chất liệu thân thiện với môi trường.

Nâng cao vai trò của địa phương: Ở tất cả các quốc gia đã nghiên cứu ở trên, chính quyền các cấp ở địa phương đều được trao quyền trong việc thực hiện các biện pháp hạn chế sử dụng nhựa dùng một lần; đặc biệt là quyền được hạn chế, cấm các sản phẩm làm bằng nhựa dùng một lần hay quyền đánh thuế đối với túi nilong. Việt Nam nên xem xét nâng cao quyền của địa phương trong việc thực hiện các biện pháp này. Bên cạnh đó, kinh nghiệm từ Mỹ và Ma-lai-xi-a cho thấy, cơ quan Trung ương nên đưa ra các định hướng, hướng dẫn, tiêu chuẩn để giúp cho các biện pháp, chính sách được thực hiện một cách nhất quán trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia.

Xem xét khả năng xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quy định riêng về RTN: Trong cả bốn quốc gia đã đề cập ở trên, ngoại trừ Mỹ, các quốc gia khác đều chưa có một văn bản quy phạm pháp luật quy định riêng về RTN mà chỉ có các kế hoạch hành động hay lộ trình. Các quốc gia này đều lồng ghép các quy định về RTN trong các luật hoặc quy định liên quan đến môi trường, rác thải và vệ sinh nói chung. Ngay cả đối với Mỹ, các quy định hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức đề xuất trong các dự án luật; chưa có gì đảm bảo sẽ được thông qua. Chúng ta cần chú ý tới điều này trong công cuộc xây dựng pháp luật đối với RTN. Việt Nam đã có một Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý RTN đại dương. Các cơ quan liên quan như Quốc hội, Chính phủ và Bộ TN&MT cần xem xét có nên xây dựng thêm một văn bản pháp luật quy định riêng về vấn đề này nữa không hay chỉ cần chính sửa, bổ sung và lồng ghép các quy định liên quan vào các văn bản đã có. Việc lựa chọn cách tiếp cận sẽ phụ thuộc vào mục đích, nội dung của quy định liên quan đến RTN mà chúng ta hướng tới cũng như tầm bao phủ của các văn bản đang tồn tại. Nếu việc lồng ghép các quy định về RTN vào các văn bản hiện hành là đủ thì không nên ban hành các văn bản riêng để tránh làm phức tạp hơn hệ thống hiện có.

NGUYỄN VÂN DIỆP

                Viện Nghiên cứu Quản lý Biển và Hải đảo