Để bảo đảm khai thác, tận dụng triệt để, không gây lãng phí tài nguyên, khoáng sản có giá trị

Thứ tư, 29/11/2023, 15:56 (GMT+7)
logo Năm 2023 đánh dấu năm thứ 13 kể từ thời điểm Quốc hội Khóa XII thông qua Luật Khoáng sản. Kể từ đó đến nay, mặc dù đã có rất nhiều văn bản quy định, hướng dẫn các nội dung của Luật Khoáng sản, nhưng các cơ quan quản lý chuyên môn và các doanh nghiệp đang thực hiện hoạt động khai thác đều phải đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc thực thi pháp luật, dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong việc xây dựng công nghiệp khai khoáng thành một ngành công nghiệp bền vững, đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng GDP của Việt Nam.

Để bảo đảm khai thác, tận dụng triệt để, không gây lãng phí tài nguyên, khoáng sản có giá trị

Trong bối cảnh đó, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năn 2045 và việc Chính phủ giao cho Bộ TN&MT chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng Dự thảo Luật ĐC&KS để thay thế Luật Khoáng sản năm 2010 có thể coi là một cơ hội tốt để tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm minh bạch, đồng bộ để có khả năng vốn hóa nguồn lực tài nguyên địa chất, khoáng sản, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật nhằm quản lý thống nhất quản lý địa chất, khoáng sản; bảo vệ tài nguyên khoáng sản, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững KT-XH của đất nước.

Nhằm thực hiện quy trình và kế hoạch xây dựng Luật ĐC&KS bảo đảm chất lượng, tiến độ, nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn cho rằng, để đảm bảo việc khai thác, tận dụng triệt để, không gây lãng phí tài nguyên có giá trị, Ban soạn thảo Dự thảo Luật ĐC&KS cần cân nhắc xây dựng cơ chế ưu đãi để các doanh nghiệp có cơ sở thu hồi tối đa khoáng sản có ích cũng như khoáng sản đi kèm; đồng thời đồng bộ hóa hệ thống quy định của Luật ĐC&KS với các quy định pháp luật chuyên ngành khác, ví dụ như pháp luật về môi trường, về thuế, phí áp dụng cho hoạt động KTKS, để tránh những bất cập, vướng mắc có thể phát sinh trong quá trình thực thi.

Nhiều ý kiến của các chuyên gia đề nghị đưa đất đá thải phát sinh từ hoạt động KTKS ra khỏi phạm vi điều chỉnh của Luật ĐC&KS (cũng như loại bỏ khỏi danh mục khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường quy định tại khoản 3 Điều 7 của Dự thảo Luật) mà có thể xem là chất thải rắn công nghiệp thông thường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và đồng thời giao cho địa phương quản lý, để khuyến khích việc tái sử dụng đất đá thải, đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng đất đá thải mỏ cho các mục đích phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Đối với thuế, phí áp dụng cho khoáng sản đi kèm, các chính sách cần làm rõ việc không thu tiền cấp quyền khoáng sản và phí bảo vệ môi trường với khoáng sản đi kèm (trừ trường hợp đã có cơ sở để xác định rõ trữ lượng cần thu hồi) và không yêu cầu điều chỉnh toàn bộ Giấy phép Khai thác để phục vụ mục đích thu hồi khoáng sản đi kèm (do hiện nay chỉ cần có công văn chấp thuận của cơ quan quản lý để thu hồi khoáng sản đi kèm cũng đã mất rất nhiều thời gian và công sức của doanh nghiệp). Theo đó, chỉ thu thuế tài nguyên đối với khoáng sản đi kèm và sẽ được tính trên cơ sở khối lượng khoáng sản đi kèm là thành phẩm cuối cùng đã thu hồi được, đạt phẩm cấp thương mại và đã bán ra.

Để hoàn thiện hơn chế định về tiền cấp quyền KTKS tại mục 3, Chương X Dự thảo Luật ĐC&KS, một số ý kiến của các nhà khoa học đề nghị, cơ quan soạn thảo nghiên cứu thêm để xây dựng, ban hành công thức tính tiền cấp quyền KTKS đảm bảo dễ thực hiện, thống nhất chung trên phạm vi toàn quốc cho từng loại khoáng sản; đảm bảo trữ lượng tính tiền cấp quyền phù hợp với trữ lượng đã ghi trong giấy phép được cấp và cần có sự phân biệt giữa các cấp trữ lượng khác nhau do mức độ tin cậy, hiệu quả kinh tế giữa chúng là khác nhau và trữ lượng cấp phép mặc dù đã được thăm dò và được Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia phê duyệt nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều sai số có thể dẫn đến tăng hoặc giảm so với kết quả được phê duyệt; xác định trữ lượng tính tiền cấp quyền theo diện tích và chiều sâu của phương án khai thác đã được phê duyệt khi cấp giấy phép thay vì theo phương thẳng đứng của ranh giới trên mặt để đảm bảo phù hợp với yếu tố kỹ thuật trong khai thác.

Theo ý kiến của đại diện Hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Nghệ An, nhiều ý kiến cho rằng: Về giá tính thuế tài nguyên khoáng sản và phí bảo vệ môi trường trong KTKS, quy định hiện hành của pháp luật về thuế tài nguyên cũng như phí bảo vệ môi trường chưa làm rõ và đưa ra mức giá cho từng mỏ khoáng sản cụ thể căn cứ vào chất lượng (hàm lượng) và điều kiện địa chất, điều kiện khai thác, hạ tầng kỹ thuật của mỏ để xác định mức giá cho phù hợp với đặc điểm của từng mỏ là chưa phù hợp gây bất lợi cho các mỏ cho chất lượng thấp, điều kiện kỹ thuật khai thác khó khăn (chi phí đầu tư lớn). Như vậy, sẽ không thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư công nghệ khai thác, chế biến để thu hồi tối đa khoáng sản có chất lượng thấp, nhất là đối với khối lượng đá dư thừa do không đạt quy cách như hiện nay.

Do vậy, để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu, cần xem xét những bất cập hiện nay trong quá trình khai thác đá hoa trắng để có những quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn nhằm ưu tiên cho doanh nghiệp đã và đang đầu tư dự án chế biến khoáng sản (nhất là Nhà máy chế biến hoạt động ổn định từ 3-5 năm).

Theo dự thảo Luật ĐC&KS, trữ lượng tính tiền cấp quyền KTKS (Q) là trữ lượng địa chất được phê duyệt nằm trong diện tích và chiều sâu theo phương thẳng đứng được phép khai thác và được quy định trong giấy phép KTKS. Quy định này không phù hợp, vì đối với dự án khai thác lộ thiên phải đảm bảo yêu cầu về góc dốc sườn tầng, bờ mỏ, dẫn đến phần trữ lượng chiếu theo phương thẳng đứng nằm ngoài ranh giới thiết kế moong khai thác lộ thiên sẽ không được phép huy động vào khai thác. Do vậy, cần điều chỉnh: “Trữ lượng tính tiền cấp quyền KTKS (Q) là phần trữ lượng địa chất huy động nằm trong không gian khai thác, biên độ thiết kế mỏ, được cấp có thẩm quyền thẩm định/phê duyệt làm cơ sở cấp giấy phép khai thác”.

Cũng theo dự thảo Luật ĐC&KS, tiền cấp quyền KTKS được thu một lần hay nhiều lần căn cứ theo theo thời gian cấp phép KTKS và được thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế và quy định của Luật này.

Quy định này cũng chưa phù hợp, khi thực tiễn khai thác trữ lượng khoáng sản có thể tăng lên, khác biệt so với trữ lượng khi tính tiền cấp quyền khai thác ban đầu, doanh nghiệp chưa nộp ngay được tiền cấp quyền phần tăng này. Do đó, cần điều chỉnh: “Tiền cấp quyền KTKS được thu một lần hay nhiều lần căn cứ theo thời gian cấp phép KTKS, theo sản lượng khai thác hằng năm và được thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế và quy định của Luật này”.

HƯƠNG TRÀ

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 20 (Kỳ 2 tháng 10) năm 2023