Đề nghị sửa đổi thời hạn giấy phép thăm dò khoáng sản

Thứ tư, 11/10/2023, 20:07 (GMT+7)
logo Tại Hội thảo lần thứ 2 lấy ý kiến góp ý Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đề xuất Bộ Tài nguyên và Môi trường sửa đổi quy định về thời hạn giấy phép thăm dò khoáng sản. Phóng viên Tạp chí TN&MT lược ghi lại ý kiến góp ý theo Dự thảo tại Công văn số 3987/TKV-TN ngày 17/8/2023, cụ thể như sau:

Đề nghị sửa đổi thời hạn giấy phép thăm dò khoáng sản

ảnh minh họa

Về tổng quan, mục tiêu và Dự thảo Luật tương đối phù hợp với yêu cầu thực tiễn và định hướng quản lý theo tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, khắc phục được nhiều vấn đề tồn tại, vướng mắc khi thi hành các quy định về pháp luật khoáng sản hiện hành.

Về công tác thăm dò

Theo quy định Luật Khoáng sản hiện hành, thời gian tối đa đối với giấy phép thăm dò (GPTD) là 48 tháng, được gia hạn nhiều lần, tổng thời gian gia hạn tối đa là 48 tháng, như vậy tổng cộng thời gian GPTD (bao gồm cả thời gian gia hạn) tối đa là 96 tháng (8 năm).

Theo Dự thảo thời gian tối đa đối với GPTD (Khoản 4 Điều 59) là 48 tháng, được gia hạn nhiều lần, tổng thời gian gia hạn tối đa là 24 tháng, như vậy thời gian GPTD (bao gồm cả thời gian gia hạn) tối đa72 tháng (6 năm).      

TKV đề nghị: Giữ nguyên thời gian gia hạn tối đa đối với GPTD như Luật hiện hành là 48 tháng

Nguyên nhân: Sau khi giấy phép thăm dò hết hạn và kết quả báo cáo thăm dò được phê duyệt, thời gian để lập Dự án khai thác, hoàn thiện các thủ tục hồ sơ theo quy định để đủ điều kiện đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sản mất nhiều thời gian (lớn hơn 24 tháng). Do vậy với thời gian nêu trên, các doanh nghiệp không đủ thời gian để thực hiện các thủ tục hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác.

Về khu vực khai thác khoáng sản

Theo Dự thảo Khu vực khai thác khoáng sản (Khoản 1 Điều 69) được giới hạn bởi các đoạn thẳng nối các điểm khép góc thể hiện trên bản đồ địa hình hệ tọa độ quốc gia với tỷ lệ thích hợp và mức sâu được xác định theo chiều thẳng đứng của ranh giới trên mặt, phù hợp với trữ lượng khoáng sản được phép đưa vào thiết kế khai thác và dự án đầu tư khai thác khoáng sản.

TKV đề nghị sửa nội dung này như sau: “Khu vực khai thác khoáng sản được giới hạn bởi các đoạn thẳng nối các điểm khép góc thể hiện trên bản đồ địa hình hệ toạ độ quốc gia với tỷ lệ thích hợp và tọa độ các điểm khép góc tại mức sâu đáy kết thúc dự án, phù hợp với trữ lượng được huy động vào dự án đầu tư khai thác khoáng sản".

Nguyên nhân: Theo Dự thảo thì chỉ phù hợp với mỏ khai thác hầm lò, nhưng không phù hợp đối với mỏ khai thác lộ thiên nếu mức sâu được xác định theo chiều thẳng đứng thì phần trữ lượng nằm ở rìa moong ngoài ranh giới thiết kế moong khai thác sẽ không thể huy động vào khai thác được, khi khai thác phần trữ lượng rìa moong sẽ bị coi là khai thác ngoài giấy phép.

Trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác

(i) Theo Dự thảo tại khoản 1 Điều 122 quy định: “Trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (Q) là trữ lượng địa chất được phê duyệt nằm trong diện tích và chiều sâu theo phương thẳng đứng được phép khai thác và được quy định trong giấy phép khai thác khoáng sản”. 

Đối với quy định này không phù hợp, vì đối với dự án khai thác lộ thiên phải đảm bảo yêu cầu về góc dốc sườn tầng, bờ mỏ, dẫn đến phần trữ lượng chiếu theo phương thẳng đứng nằm ngoài ranh giới thiết kế moong khai thác lộ thiên sẽ không được phép huy động vào khai thác.

Đề nghị điều chỉnh như sau: “Trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (Q) là phần trữ lượng địa chất huy động nằm trong không gian khai thác/biên giới thiết kế mỏ, được cấp có thẩm quyền thẩm định/phê duyệt làm cơ sở cấp giấy phép khai thác”.

(ii) Theo Dự thảo tại khoản 1 Điều 114 quy định: “Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thu một lần hay nhiều lần căn cứ theo theo thời gian cấp phép khai thác khoáng sản và được thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế và quy định của Luật này”.

Đề nghị điều chỉnh như sau: “Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thu một lần hay nhiều lần căn cứ theo thời gian cấp phép khai thác khoáng sản, theo sản lượng khai thác hng năm và được thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế và quy định của Luật này”.

(iii) Theo Dự thảo tại khoản 3 Điều 115 quy định: “Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, xác định bằng tổng số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản phải nộp phân bổ cho số năm khai thác. Điều kiện xác định khoản chi được trừ theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.”

Đề nghị điều chỉnh như sau: “Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, xác định bằng tổng số tiền cấp quyền khai thác phải nộp theo sản lượng khai thác hng năm”.

Diệp Anh

(Lược ghi theo Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam)