Để triển khai thành công quản lý tổng hợp vùng bờ

Thứ hai, 30/1/2023, 08:34 (GMT+7)
logo Sau hơn 20 năm nghiên cứu, thử nghiệm xây dựng và áp dụng các mô hình quản lý tổng hợp vùng bờ, Việt Nam đã hình thành khung chính sách, luật pháp về quản lý tổng hợp vùng bờ. Nhiều ngành kinh tế sử dụng vùng bờ để phát triển. Đây cũng là nơi sinh sống của hàng triệu cư dân. Quản lý tổng hợp vùng bờ là phương thức quản lý nhằm tối ưu hóa lợi ích của tài nguyên này và hài hài hòa lợi ích giữa các ngành, địa phương và các bên liên quan khác.

Thực tiễn quản lý tổng hợp vùng bờ 

Vùng bờ là vùng tương tác của đất và biển, chịu tác động của các quá trình sinh học và vật lý cả trên biển và đất liền, được xác định là khu vực quan trọng cho quản lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Quản lý tổng hợp vùng bờ (QLTHVB) bắt đầu được áp dụng trên thực tế tại Việt Nam từ năm 2000 thông qua hai dự án quốc tế là: Dự án UNDP/IMO/PEMSEA và Dự án Việt Nam - Hà Lan về QLTHVB dải ven biển, 2000 - 2005.

QLTHVB được công nhận rộng rãi trong công tác quản lý tài nguyên và môi trường biển sau khi Chương trình QLTHVB dải ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2007.

Để triển khai thành công quản lý tổng hợp vùng bờ

ảnh minh họa

QLTHVB được thực hiện thông qua một số công cụ như: Chính sách và tổ chức quản lý (bao gồm Cơ chế điều phối đa ngành, Chiến lược/KHHĐ QLTHVB, phân vùng sử dụng/quy hoạch vùng bờ…); nhóm công cụ giám sát đánh giá (lập báo cáo hiện trạng vùng bờ, hệ thống quản lý thông tin tổng hợp; đánh giá tính dễ bị tổn thương, đánh giá rủi ro môi trường, chương trình quan trắc môi trường tổng hợp), các công cụ truyền thông và nâng cao nhận thức và công cụ tài chính (Cơ chế tài chính bền vững). Việt Nam đã và đang từng bước áp dụng các công cụ này vào thực tiễn QLTHVB và đã đạt được một số kết quả nhất định. Về cơ cấu tổ chức, ở cấp trung ương, đến nay đã có 25/28 tỉnh ven biển thành lập Chi cục Biển và Hải đảo (gồm Nghệ An, Tiền Giang và Tp. Hồ Chí Minh). Về chính sách, pháp luật, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành. Tiếp theo Quyết định số 158/2007/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình QLTHVB dải ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” là cơ sở cho việc triển khai QLTHVB chính thức ở Việt Nam, hàng loạt các văn bản mới ban hành như Chiến lược QLTHVB đới bờ Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2295/QĐ-TTg; Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược được phê duyệt tại Quyết định số 914/QĐ-TTg; Luật TN, MT biển và hải đảo đã được Quốc hội thông qua vào tháng 07/2015; Nghị định số 40/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật TN,MT biển và hải đảo; Thông tư số 49/2017/TT-BTNMT quy định kỹ thuật về lập, điều chỉnh Chương trình QLTHVB tài nguyên vùng bờ và Thông tư số 74/2017/TT-BTNMT về lập quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ.

Việc Quốc hội thông qua Luật TN, MT biển và hải đảo và Luật quy hoạch đã thể hiện quyết tâm và nỗ lực của Việt Nam trong việc triển khai các giải pháp tổng thể trong tổ chức không gian lãnh thổ ở các cấp độ khác nhau. Theo Luật quy hoạch, quy hoạch không gian biển là quy hoạch cấp quốc gia, do Chính phủ tổ chức lập và trình Quốc hội phê duyệt. Nội dung của quy hoạch không gian biển bao gồm việc “định hướng bố trí sử dụng không gian các hoạt động trong vùng đất ven biển, các đảo, quần đảo, vùng biển, vùng trời thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam”. Luật TN, MT biển và hải đảo quy định việc lập quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. Đây được xem là công cụ quan trọng, cần thiết để thực hiện QLTHVB vùng bờ hiệu quả là định hướng và tổ chức không gian cho việc khai thác, sử dụng các tài nguyên trong vùng bờ trong phạm vi vùng đất ven biển thuộc các huyện, xã ven biển và vùng nước ven biển cách bờ 6 hải lý, từ đó nhằm bảo đảm tính tổng thể, sự hài hòa về lợi ích giữa nhu cầu khai thác, sử dụng và yêu cầu bảo vệ TN, MT, hệ sinh thái; sự hài hòa về lợi ích giữa các bên liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ; bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển; bảo đảm QP-AN.

Đến nay, nhiều dự án, hoạt động QLTHVB đã được xây dựng và triển khai ở cấp trung ương cũng như địa phương bằng nguồn ngân sách quốc gia, địa phương và nguồn tài trợ từ nước ngoài, hỗ trợ có hiệu quả công tác quản lý nhà nước thống nhất và tổng hợp về biển và hải đảo. Nhiều tỉnh, thành ven biển đã tích cực tham gia và tổ chức xây dựng, triển khai các dự án, nhiệm vụ về QLTHVB tại địa phương minh.

Để triển khai thành công quản lý tổng hợp vùng bờ

Các chuyên gia, nhà khoa học biển và đại diện các địa phương có biển trong khu vực Đông Á đã cùng nhau thảo luận những thách thức trong việc thực hiện ICM ở Việt Nam

Một số tỉnh, thành như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Kiên Giang tham gia Dự án PEMSEA-VASI; Quảng Ninh và Hải Phòng hiện đang triển khai Dự án “Hỗ trợ QLTHVB vùng cửa sông Hải Phòng và các vịnh Hạ Long và Bái Tử Long”; Bà Rịa - Vũng Tàu đang triển khai Dự án Thiết lập nền tảng cho QLTHVB vùng bờ ở một số tỉnh ven biển của Việt Nam; Nghệ An là địa phương triển khai liên tục 2 dự án QLTHVB tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2011 - 2015 và 2016 - 2020; Quảng Ngãi triển khai liên tục dự án tổng thể QLTHVB tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2012 - 2015 và Kế hoạch QLTHVB tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2016 - 2020.

Sau hơn 20 năm nghiên cứu, thử nghiệm xây dựng và áp dụng các mô hình QLTHVB vùng bờ, Việt Nam đã hình thành khung chính sách, luật pháp về QLTHVB vùng bờ.

Vẫn còn nhiều hạn chế

Việc triển khai QLTHVB trên thực tế ở nước ta gặp nhiều khó khăn chủ yếu do sự phân bổ không hợp lý về nguồn lực cho thực hiện QLTHVB; công tác điều phối QLTHVB ở cấp quốc gia/địa phương chưa hiệu quả; chưa có sự liên kết các giữa các sáng kiến ở cấp quốc gia, khu vực và địa phương; thiếu nguồn tài chính bền vững (từ trung đến dài hạn) và sự tham gia mạnh mẽ của các bên liên quan; thời điểm tiến hành và sự cam kết của chính quyền.

Một số hạn chế trong việc triển khai áp dụng phương thức QLTHVB hiện nay là: Chưa quy hoạch, phân vùng sử dụng tài nguyên và không gian vùng bờ: Dẫn đến nảy sinh nhiều xung đột, mẫu thuẫn về lợi ích trong việc khai thác, sử dụng không gian, tài nguyên vùng bờ giữa các ngành và địa phương. 

Nhận diện đúng về khái niệm và cách tiếp cận mới trong quản lý tài nguyên biển, cụ thể là phương thức QLTH và quy hoạch không gian biển. Phương thức QLTHVB vẫn đang còn là những vấn đề “mới” nên một số địa phương chưa triển khai thống nhất, đồng bộ QLTHVB, do thiếu hướng dẫn cụ thể, phù hợp với điều kiện KT-XH của Việt Nam.

Đội ngũ cán bộ quản lý hiện nay thiếu kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để tạo ra sự thay đổi hiệu quả. Phần lớn cán bộ chưa được đào tạo một cách quy củ, bài bản về các kỹ năng, phương pháp, các kiến thức cơ bản trong lĩnh vực quản lý mới này. Vẫn còn thiếu sự định hướng, hỗ trợ và tạo điều kiện từ phía trung ương (từ các bộ, ngành, các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia kỹ thuật).

Nguồn thông tin cần thiết, hỗ trợ cho QLTHVB rất phong phú. Tuy nhiên các nguồn thông tin, dữ liệu này còn phân tán tại nhiều cơ quan quản lý. Nhiều thông tin, dữ liệu chưa đạt được độ tin cậy và chưa được hệ thống hóa. Thiếu các cơ chế chia sẻ và tiếp cận nguồn thông tin và nguồn tài chính bền vững để triển khai đồng bộ, thống nhất từ cấp trung ương xuống địa phương và giữa các địa phương ven biển còn hạn hẹp và thiếu tập trung.

Ở Việt Nam, QLTHVB đang ngày càng được quan tâm, chấp nhận và áp dụng vào thực tế để trở thành một giải pháp hiệu quả cho quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và bờ. Những kết quả bước đầu thu được khi áp dụng các mô hình quản lý tổng hợp tại các địa phương rất đáng khích lệ. Đây chính là bước khởi động cơ sở để mô hình này nhận được sự quan tâm và ủng hộ mạnh mẽ của lãnh đạo, cộng đồng dân cư và các bên liên quan khác. Tuy nhiên, việc nhân rộng và vận hành một mô hình quản lý dù đã được chứng minh qua thực tiễn mở ra cơ hội lớn cũng như thách thức không nhỏ trong giai đoạn hiện nay.

Để triển khai thành công QLTHVB ở Việt Nam trong thời gian tới, cần tập trung giải quyết đồng thời các vấn đề sau: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, thể chế liên quan tới QLTHVB. Tăng cường năng lực điều phối của các cơ quan trung ương và năng lực thực hiện tại các địa phương. Đa dạng hóa các nguồn tài chính cho QLTHVB, đảm bảo nguồn tài chính ổn định và có kế hoạch. Đánh giá, rút ra kinh nghiệm và bài học cụ thể làm cơ sở cho việc mở rộng phạm vi. Khuyến khích các cơ quan khoa học - kỹ thuật, trường học, các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội cũng như cộng đồng dân cư ven biển,…tham gia rộng rãi vào quá trình QLTHVB với một cơ chế làm việc mềm dẻo, linh hoạt nhưng thống nhất, làm cơ sở cho việc hình thành mạng lưới tư vấn hiệu quả bởi các vấn đề quan tâm được xem xét từ nhiều góc độ.

Nâng cao nhận thức về giá trị của tài nguyên vùng bờ và nhu cầu quản lý, khai thác và phát triển tài nguyên thiên nhiên ở đới bờ theo hướng bền vững là cơ sở để tiếp thu và áp dụng QLTHVB vào thực tiễn; nâng cao nhận thức cần được thực hiện cho tất cả các bên liên quan, bao gồm các cấp ra quyết định, các nhà quản lý, các khu vực kinh tế và cộng đồng dân cư. Chia sẻ thông tin, bài học và kinh nghiệm thực tế tốt về QLTHVB ở các nước trong khu vực và ở Việt Nam. Tổ chức các chuyến học tập trao đổi kinh nghiệm tại các điểm trình diễn về QLTHVB cho cán bộ lãnh đạo địa phương và các đợt khảo sát, tập huấn cho cán bộ về kinh nghiệm thực hành QLTHVB ở các nước trong khu vực có điều kiện tương đồng.

Nguyễn Hoàn

Cục Biển và Hải đảo Việt Nam